Saturday, September 16, 2017

THÁNH CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC 1

Bài do Nhật Vy ghi chép pháp thoại của Thầy có đường dẫn sau: 
(https://soundcloud.com/thichbaonguyen/thanh-chanh-niem-tinh-giac-1

Chúng ta đang học phần thánh hộ trì các căn. Hộ trì nhãn căn (mắt) nhìn, nhĩ căn (tai) nghe, tỉ căn (mũi) ngửi mùi thơm mùi thúi, thiệt căn (lưỡi) nếm, thân căn là thân xúc. Ý căn là những suy nghĩ, hiểu biết của chúng ta. Phật dạy đó là các căn.
Chúng ta phải phòng hộ các căn. Phòng hộ các căn nó có thêm một ý nghĩa là chúng ta sống tỉnh thức. Chúng ta thường nghe từ tu tập tỉnh thức phải không? Khi có niệm gì đến với tâm của chúng ta là chúng ta phải nhận ra cái niệm ấy, dù là niệm thiện hay niệm ác, đó là tỉnh thức. Chúng ta phải hiểu tỉnh thức là pháp phòng hộ. Nếu chúng ta không tỉnh thức thì không có phòng hộ các căn của mình được.
Ví dụ, trong ý mình vừa khởi lên một niệm tham, niệm sân, niệm si, niệm kiêu mạn và niệm nghi. Người nào sống không nhận ra cái tâm này thì người ấy không có tỉnh thức. Cho nên pháp phòng hộ các căn chỉ cho các căn này khi tiếp xúc với 6 pháp trần mà nó sinh ra những tâm tham, sân, si, mạn, nghi ấy. Để tu tập đoạn trừ các tâm tham, sân, si, mạn, nghi này thì chúng ta phải giác nó ra, phải tỉnh giác.
Đến đây đức Phật dạy chúng ta tiếp tục tu tập pháp Thánh Chánh niệm Tỉnh giác. Đức Phật dạy: “Đại vương, thế nào là tỳ-kheo chánh niệm tỉnh giác? Ở đây các tỳ-kheo khi đi tới, đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép (y kép tức là y hạ, y trung ta mặc bên trong gọi là y kép, còn y thượng là chỉ tấm y mình đắp bên ngoài, khi đi khất thực mình phải đắp y), khi ăn uống, nhai nuốt đều tỉnh giác, khi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, im lặng đều tỉnh giác. Như vậy, này đại vương, tỳ-kheo chánh niệm tỉnh giác”.
Do chúng ta tu tập pháp phòng hộ chánh niệm tỉnh thức nhận ra suy nghĩ của mình, nhận ra cái tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình. Khi nhận ra cái tâm đó thì mình phải giác ra. Trong bài kinh Thức Ăn, đức Phật dạy: “Thức ăn của hộ trì các căn là gì? Đó là chánh niệm tỉnh giác”.
Muốn hộ trì các căn, chúng ta phải thấy rõ sự thật của các pháp bất thiện, nhận rõ nó để giác nó ra. Khi giác nó ra thì mình hiểu nó như thật. Nếu chúng ta không hiểu, không có giác thì không xả được. Ví dụ có con muỗi vừa cắn trên tay chúng ta, thân ta nhận biết đau do con muỗi cắn. Đó là thân nhận biết, và khi nhận biết như vậy chúng ta biết con muỗi nó đang cắn thì mình giác ra như thật: “À, con muỗi này nó có duyên nhân quả với mình. Thôi, mình phải biết thương yêu tha thứ nó. Vì vô minh nên nghiệp sống của nó như vậy, nó lỡ cắn rồi, mình đừng giết nó. Nếu mình giết nó là mình phạm vào giới sát. Mình tạo nhân đau khổ cho mình sau này.”
Lúc mình giác là chỉ cho tri kiến của mình biết rõ sự thật khổ và nguyên nhân của khổ để từ đó không có hành động đập con muỗi. Khi chúng ta hiểu biết như vậy và nói rằng: “Thôi, hãy biết thương yêu và tha thứ nó, đừng đập nó”, đó là tác ý.
Tiếp theo bài kinh Thức Ăn, đức Phật dạy: “Thức ăn của chánh niệm tỉnh giác là gì? Đó là như lý tác ý”.
Khi giác ra rồi thì mình phải hành động, hành động có nghĩa là tác ý (hồi sáng Thầy có nói nghĩa là tứ đó). Tứ là mình tác ý ra, chỉ cho hành động mình thực hiện việc làm, việc làm là ngăn, diệt ác pháp. Khi con muỗi nó cắn mà chúng ta ngăn, chúng ta giác ra nhân quả này, ngăn hành động ác của mình không được đập con muỗi. Vì chúng ta giác ra và ngăn, không cho hành động ác, đó là chánh niệm tỉnh giác. Và khi giác rồi thì chúng ta quyết tâm không làm theo, đó là như lý tác ý thì hành động bất thiện này mới đoạn diệt được. Pháp Phật dạy rất là cặn kẽ như vậy.
Đầu tiên là Ngài dạy mình pháp phòng hộ các căn, nhờ có chánh niệm tỉnh giác mà chúng ta nhìn ra sự thật các lậu hoặc, các căn đưa đến đoạn diệt thì ngay đó là thân tâm chúng ta an lành liền. Ví dụ có người đến làm những điều bất thiện cho mình, người ta nói ra nói vào đủ thứ mà mình cứ kham nhẫn, vui vẻ, hoan hỷ xả hết, không có chấp thì ngay cái tâm đó chúng ta không có đau khổ. Khi mình xả cái tâm chấp, cái tâm dính mắc đó thì ngay liền không còn khổ nữa.
Khi cái nhân không gieo thì cái quả có không? Không có.
Chánh niệm tỉnh giác là như vậy, khi mình giác ra hành động bất thiện và không có hành động theo nó, thì dần dần những lậu hoặc này nó bị diệt. Chúng ta yên tâm, từ từ nó bị diệt hết, và lúc này chúng ta cứ kiên nhẫn, đừng có thối lui.
Chính vì lý do đó, đức Phật mới dạy: “Khi tâm chúng ta còn tham, sân, si, mạn, nghi thì gánh nặng thiện pháp không được bỏ”. Gánh nặng thiện pháp chỉ cho đời sống đạo đức nhân bản nhân quả, chỉ cho những giới luật và đức hạnh mình gìn giữ. Ngài cũng dạy: “Dù cho thân này máu có khô, thịt có khô mà nếu sự tinh tấn này còn thì chúng ta cứ tinh tấn, nếu lỡ chúng ta có bệnh, chúng ta không đi lại nổi thì mình nằm mình vẫn tinh tấn được”.
Tinh tấn đến từ ý căn. Do có ý căn mà chúng ta hiểu các pháp như thật, mình tư duy, tác ý mình xả, làm sao cái ý mình sáng suốt nhìn ra các pháp để nó làm chủ, nó không có chấp trước và hướng đến đoạn diệt các phiền não, những cảm thọ trên thân này, đó là chúng ta đang chánh tinh tấn. Chánh tinh tấn là như vậy.
Tinh tấn mang ý nghĩa siêng năng chánh niệm tỉnh giác để mình giác ra từng tâm niệm của mình. Khi có những chướng ngại, những lậu hoặc thì mình tác ý xả, đó là chánh tinh tấn. Chứ không phải là người siêng năng ngồi thiền nhập định 1 ngày, 2 ngày thì đó không phải là chánh tinh tấn.
Chánh tinh tấn Phật dạy chúng ta là pháp phòng hộ, tỉnh thức hộ trì các căn, chánh niệm tỉnh giác để chúng ta giác ra từng tâm niệm bất thiện, giác ra cái tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình, thấy ra sự thật khổ và nguyên nhân của khổ bởi những tâm niệm bất thiện này để mình quyết tâm xả nó, không có lơ là một chút xíu nào trong tâm. Phải phòng hộ hết sức, đó là chánh tinh tấn.
Nhờ có chánh tinh tấn này mới đoạn trừ những niệm bất thiện, các lậu hoặc thì ngay đó tâm mình giải thoát. Cho nên, giai đoạn đưa đến giải thoát, đoạn trừ mọi phiền não là giai đoạn mà chúng ta tu pháp phòng hộ, chánh niệm tỉnh giác trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng tỉnh giác.
Ở đây đức Phật dạy: “Khi đi tới đi lui đều tỉnh giác…”, mà tỉnh giác là nó giác trên mọi hành động của nó, có ý của mình. Chánh niệm tỉnh giác là mình giác ra trên sáu căn, nên đức Phật dạy: “Thức ăn của hộ trì các căn, đó là chánh niệm tỉnh giác”. Mình phải giác trên sáu căn này: mắt thấy sắc, tai nghe ân thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý suy tư. Mọi pháp xung quanh mình phải giác nó ra trên bốn hành động đi, đứng, nằm, ngồi.
Phật dạy chánh niệm tỉnh giác là mình sống bình thường, cứ để cái tâm mình nó bình thường. Mà trên các căn này, cái gốc ngũ triền cái thuộc về tham, sân, si, mạn, nghi thì chúng ta giác nó ra. Và khi giác ra, hiểu nó như thật thì phải biết xả các niệm bất thiện này, đó là chánh niệm tỉnh giác. Pháp tu này là pháp tu Tứ Chánh Cần, là pháp phòng hộ nên chúng ta đừng có gom tâm tập trung ở một điểm, từ nào giờ nhiều người đã hiểu sai pháp tu này.
Trong tâm thường có những niệm khởi lên, những niệm lăng xăng đó là vọng tưởng, là đối tượng phải diệt, người ta cho rằng phải diệt cái niệm này thì từ từ tâm mình mới thanh tịnh. Nhưng không ngờ rằng, khi chúng ta diệt những vọng tưởng lăng xăng này là diệt luôn ý thức. Nhiều người tu họ diệt ý thức, họ rớt vào trạng thái tỉnh lặng. Trên trạng thái này có sự an lạc, nó cũng làm cho mình yên lặng, sâu lắng và có cảm giác an lạc, nhưng đó là rớt vào thiền vô sắc. Khi sống trong trạng thái thiền vô sắc (Không vô biên xứ tưởng) thì không giải quyết được sự khổ về cái sinh, cái già, cái bệnh, cái chết, tức là cái phiền não nơi tâm mình chưa diệt.
Ở đây, chánh niệm tỉnh giác Phật dạy là mình sống bình thường, sống hộ trì các căn để các căn này nó bình thường. Trên các căn này có những biến động nào thuộc về tham, sân, si, mạn, nghi thì mình nhìn ra cái tâm đó, hiểu nó như thật để tác ý xả. Chúng ta cứ sống như vậy thôi, đó là pháp phòng hộ các căn, chánh niệm tỉnh giác. Pháp tu này đức Phật tự khám phá ra.
Trước đó Ngài tu tập theo pháp ngoại đạo từ hai vị thầy đầu tiên là ngài Alàràma Kàlàma và Uddaka Ràmaputta. Ngài cũng tu những pháp ức chế như ngồi thiền nhiếp tâm, an trú tâm không để cho những niệm vọng động, những niệm lăng xăng khởi lên. Ngài tập trung vào một pháp nào đó, gom nó lại, nhiếp phục nó, không cho nó khởi niệm. Không ngờ tu pháp này một thời gian là diệt ý thức và rớt vào thiền vô sắc. Khi sống trong trạng thái thiền vô sắc (Không vô biên xứ tưởng) nó làm cho Ngài an lạc, hoan hỷ với trạng thái đó. Nhưng khi xả ra sống bình thường trở lại với hành động nhân quả của Ngài thì lúc này nghiệp lực tương ưng nó tác động trên sáu căn và ý thức còn đau khổ. Ngài nhận ra rằng pháp môn này không có kết quả gì hết, nó không giải quyết sự khổ về cái sinh, cái già, cái chết, tức là cái phiền não nơi tâm mình chưa bị diệt.
Lúc đó Ngài phải từ giã pháp tu này và kế tiếp là tu tập pháp khổ hạnh, mong rằng mình sẽ diệt hết phiền não. Ngài tu tập ức chế bằng pháp khổ hạnh làm cho thân thể tiều tụy đưa đến suy nhược, mất sức khỏe, không tập trung nên rất đau khổ. Thấy cuộc đời mình tu hành suốt sáu năm, tới đây không có kết quả, Ngài mất phương hướng về lòng tin đối với những pháp tu này, không còn tha thiết tu vì nó làm cho Ngài đau khổ. Nhớ lại khi 10 tuổi, Ngài theo vua cha làm lễ hạ điền. Trong khi mọi người đang làm lễ hạ điền, Ngài lặng lẽ đến gốc cây hồng táo ngồi chơi để cho tâm mình an lạc vô sự, trên tâm đó Ngài nhập trạng thái sơ thiền. Vì lúc còn thiếu thời, đức vua có mời tất cả các đạo sư, đạo sĩ đến để dạy bảo cho Thái tử nhiều học thuật, trong đó có học về thiền định. Những thiền này trước đó người ta có tu hết, nhưng mà tu bằng ức chế.
Thầy vừa nói trường hợp của đức Phật, Ngài tu cũng nhiếp tâm, an trú tâm, cuối cùng rớt vào các thiền vô sắc, không đưa đến kết quả ly dục ly ác pháp đoạn trừ các lậu hoặc. Từ thuở bé Ngài đã học và hiểu được những pháp tu này nhưng không có người hướng dẫn đúng con đường của nó. Lúc ngồi lặng lẽ dưới gốc cây hồng táo, Ngài để tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Trên tâm đó Ngài nhập trạng thái sơ thiền.
Sơ thiền là gì? Sơ thiền chỉ cho trạng thái tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự. Cứ để nó bình thường, trên đó chúng ta không tu tập ức chế một pháp môn nào, đó là trạng thái của sơ thiền. Nhưng mà lúc này là Ngài nhập thôi, chưa có chứng. Mới có 10 tuổi làm gì biết pháp mà tu chứng được. Muốn chứng được sơ thiền phải đoạn trừ tham, sân, si, mạn, nghi, phải đoạn ngũ triền cái thì mới chứng được sơ thiền.
Ở đây Thầy nói ý nghĩa nhập sơ thiền, khi chúng ta ly dục ly ác pháp là chúng ta đang nhập sơ thiền, khi đang nhập sơ thiền là mình đang sống trên cái pháp tu. Hằng ngày chúng ta cứ để thân tâm mình bình thường ở trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự, chánh niệm tỉnh giác, đó là trạng thái sơ thiền. Khi nhớ lại cách tu này, đức Phật thấy rằng có thể giúp cho sự tu tập đoạn trừ các lậu hoặc đưa đến giải thoát, đây là con đường sẽ giúp ta đi đúng nên Ngài quyết định sẽ sống theo phương pháp tu tập này.
Ngài cứ để cho thân tâm này bình thường, hộ trì các căn, chánh niệm tỉnh giác. Để tu tập giai đoạn tứ chánh cần này cho đúng pháp, Ngài từ giã lối sống khổ hạnh và ăn uống bình thường trở lại thì lúc này trong tâm Ngài suy tư: Để mà sống và nhập vào trạng thái sơ thiền thì phải ăn trở lại bình thường. Nếu thân mình nó ốm o, bệnh tật, có những chướng ngại, có nhiều điều khó khăn xảy ra thì làm sao mà nhập sơ thiền được. Trạng thái sơ thiền là trạng thái tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự, nó ly các dục, các ác pháp trong đó, nó không còn dính mắc chuyện gì xung quanh, đó là trạng thái sơ thiền.
Đức Phật suy nghĩ, phải ăn uống bình thường trở lại, sống bình thường trở lại thì mới tu tập đúng con đường này. Rồi Ngài quyết định ăn 1 ngày 1 bữa.
Thời bấy giờ, có một tín nữ Sudata thấy một vị Sa-môn (là đức Phật) rất là ốm, khổ hạnh, tín nữ này mới dâng cúng bát sữa cho Ngài. Người ta nói đức Phật dùng bát sữa đó thì sức khỏe mới được phục hồi. Thật sự là lúc đó đức Phật ăn uống bình thường trở lại. Bát sữa nói lên rằng Ngài sẽ ăn uống bình thường trở lại cho phục hồi sức khỏe chứ không thể một bát sữa uống vào là tự nhiên có sức khỏe đầy đủ. Cần phải có thời gian để sức khỏe phục hồi, nên lúc đó đức Phật nói rằng Ngài phải ăn thô thực trở lại.
Khi đó năm anh em Kiều Trần Như biết đức Phật ăn thô thực trở lại thì cho rằng đức Phật chạy theo dục lạc, rồi họ không có lòng tin và họ bỏ luôn không theo đức Phật nữa. Không ngờ đó là cái duyên để đức Phật sống độc cư một mình. Lúc này không còn ai thân cận nữa, Ngài tự tu tập theo pháp mà mình đã tự tìm ra được.
Đức Phật lặng lẽ đi tìm đến một gốc cây (bây giờ chúng ta gọi là cây bồ đề), ngày ấy là cây đa, chưa có tên gọi cây bồ đề. Khi đức Phật thành Phật rồi thì cây ấy trở thành cây bồ đề. Nếu đức Phật ngồi tu tập dưới gốc cây bàng thì khi thành Phật, cây bàng này cũng trở thành cây bồ đề. Lịch sử đức Phật sinh ra và thành đạo gắn liền với quá trình tu tập giải thoát của Ngài, trở thành cái danh xưng riêng nên lúc đó Ngài lặng lẽ tới cội cây bồ đề.
Ở đây chúng ta nên nhớ rằng Ngài không ngồi luôn đâu. Trước đây mọi người tưởng rằng đức Phật tu tập ngồi kiết già nhập định liền 49 ngày đêm, người ta tưởng như vậy. Thực tế trong 49 ngày đêm này, đức Phật vẫn sống một trạng thái bình thường, không có ức chế, Ngài để tâm thanh thản, an lạc, vô sự, chánh niệm tỉnh giác. Trên cái tâm đó là Ngài nhập trạng thái sơ thiền đúng như lúc mới 10 tuổi. Ngài cứ để cho thân tâm này bình thường, gọi là hộ trì các căn, chánh niệm tỉnh giác.
Ngài cứ ngồi chơi vô sự, nếu ngồi có mỏi thì đứng dậy đi kinh hành. Cho nên trong khoảng thời gian 49 ngày đêm đó là Ngài tu tập pháp 4 Chánh cần trên 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi tu tập pháp phòng hộ các căn, chánh niệm tỉnh giác. Ngài sống bình thường, hết sức bình thường, ngồi chơi vô sự thôi. Trên các căn này, những niệm nào thuộc về tham, sân, si, mạn, nghi, những niệm nào hại mình, hại người, hại chúng sinh thì Ngài tư duy hiểu nó như thật rồi hướng tâm tác ý xả. Ngài tu tập giai đoạn 4 Chánh cần này không có ức chế nữa.
Trước kia tu theo pháp môn của ngoại đạo, những niệm gì nó đến thì Ngài cứ tập trung nơi tâm thôi, không để cho niệm này khởi lên nơi tâm của mình. Giống như bây giờ có những pháp môn tu không cho vọng tưởng khởi niệm, gọi là gom tâm, nhiếp tâm, không để niệm này khởi lên trong tâm của mình. Cái hiểu biết đó là diệt ý thức đưa đến pháp tu ức chế tâm.
Còn ở đây, những niệm khởi trong tâm chưa phải là có lỗi, những niệm tham, sân, si, mạn, nghi khi nó khởi lên trong tâm của mình gọi là tâm ngũ triền cái. Nó vừa khởi cái niệm tham, sân, si, mạn, nghi ấy, nếu chúng ta sống trong vô minh rồi hành động theo những nghiệp này, mình chạy theo các dục của nó, cái lỗi là do dục, do kiết sử.
Ngài Xá Lợi Phất dạy: Kiết sử là do lòng dục, khi sáu căn tiếp xúc sáu pháp trần mà trên cái ý này nếu nó vô minh và hành động theo dục của nó, nó dính mắc, nó tham đắm mới gọi là kiết sử, mới gọi là có lỗi. Còn nếu những niệm này mình làm chủ nó, mình biết nó, mình hiểu nó như thật rồi hướng tâm tác ý xả thì những niệm này đi đến đoạn diệt. Mình diệt các lậu hoặc là do có trí.
Vì vậy pháp 4 Chánh cần là pháp tu để làm chủ tâm, tỉnh thức trên sáu căn, chánh niệm tỉnh giác để nhận ra mọi sự thật, mọi cái niệm. Niệm hại mình, hại người, hại chúng sinh thì tư duy tác ý xả, mình không hành động theo nó thì những niệm này tự nó diệt. Mình không hành động có nghĩa là tác ý, như lý tác ý ngăn, diệt nó, không hành động theo thì những niệm này tự diệt. Đức Phật dạy: “Các pháp tự duyên sinh, các pháp tự duyên diệt” là như vậy. Chỉ cần chúng ta giác hiểu nó, không hành động theo thì tự nó diệt mà không bị ức chế tâm.
Chúng ta luôn nhớ cái thức của mình là cái biết, là ông chủ, nhiệm vụ của ý thức là để suy tư, hiểu biết mọi pháp, cái nào đúng, cái nào sai, cái nào phải, cái nào trái và hành động là không nên làm việc này hoặc nên làm việc kia, ý thức của mình là như vậy.
Cái ý của chúng ta là cứ để cho nó bình thường. Khi chúng ta tu pháp 4 Chánh cần, giai đoạn tu tập xả tâm này là cứ để ý thức mình bình thường, đừng có gò ép, đừng có tập trung vào một đối tượng nào, một pháp môn nào. Cái ý của chúng ta nó biết mọi pháp để làm chủ thì chúng ta tu tập như vậy, không bị ức chế. Còn nếu chúng ta dùng ý thức để gom tâm, nhiếp tâm, an trú tâm, tập trung một chỗ nào trên thân thì đó là ức chế, tu tập như vậy là không đúng pháp 4 Chánh cần Phật dạy.
Lúc đức Phật bỏ hết các pháp môn tu trước đó, Ngài chỉ sống bình thường, ngồi chơi vô sự, hộ trì các căn, chánh niệm tỉnh giác. Trên cái niệm này có những pháp nào đến thì Ngài tư duy tác ý xả. Cho nên tu pháp 4 Chánh cần này suốt 49 ngày đêm, khi tâm Ngài vô lậu thanh tịnh, đoạn diệt sạch các tham, sân, si, mạn, nghi, đoạn diệt sạch ngũ triền cái thì trên cái tâm đó là 4 Niệm xứ đã thanh tịnh rồi, lúc này Ngài tự tỉnh thức trên mọi hành động của nó.
Nếu mà Ngài không tỉnh thức trên mọi hành động của nó (4 niệm xứ) khi đi, đứng, nằm, ngồi thì sẽ rớt vào không tưởng (tức là thiền vô sắc). Cho nên lúc này đức Phật thường nhắc tâm phải tỉnh thức trên mọi hành động của nó. Và trong suốt thời gian này (49 ngày đêm) là Ngài cứ tỉnh thức trên thân, đó là Thân hành niệm. Giai đoạn Ngài sung mãn 4 Niệm xứ, 7 Giác chi và 4 Thần túc chưa đầy một tuần lễ, thực hiện 4 Thiền và 3 Minh chỉ trong vòng một ngày đêm là xong.
Giai đoạn đức Phật tu pháp 4 Chánh cần 49 ngày đêm thì Ngài sống bằng pháp hộ trì các căn, chánh niệm tỉnh giác để cho thân tâm này bình thường. Trong kinh đức Phật diễn tả, khi Ngài đã phục hồi lại sức khỏe đầy đủ, Ngài sống bình thường trở lại, lúc đó Ngài hướng tâm ly dục ly ác pháp nhập sơ thiền.
Nhập sơ thiền có nghĩa rằng Ngài đang sống trên pháp 4 Chánh cần, Ngài đang hướng đến ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm để chứng được sơ thiền. Khi chứng được sơ thiền thì tất cả các lậu hoặc tham, sân, si, mạn, nghi phải đoạn diệt thì đó là chứng sơ thiền. Cho nên đức Phật dạy: “Khi Ta chứng sơ thiền, nếu mà Ta chưa có nhàm chán, ly tham và đoạn diệt các ác pháp và các cảm thọ trên thân này thì sơ thiền này chưa chứng đạt nơi Ta”.

Đức Phật cũng dạy: “Ta không sống theo pháp khổ hạnh này nữa, mà Ta phải sống bình thường, ăn ngày một bữa, không có ép xác, phải sống đúng giới luật này”. Do Ngài sống đúng như vậy mới an trú trong pháp tu tập 4 Chánh cần mà không bị ức chế. Và Ngài sống với pháp này suốt 49 ngày, thân tâm của Ngài hoàn toàn ly dục ly ác pháp chứng sơ thiền.

No comments:

Post a Comment