Saturday, December 28, 2013

QUI LUẬT NHÂN QUẢ

QUI LUẬT NHÂN QUẢ
---Ø«×---
Kính gửi: Cháu Trang
Vạn vật được sinh ra đều phải theo qui luật của nhân quả, không có một vật nào ra khỏi qui luật này. Cho nên có những người hung ác thì cũng phải có những người hiền lành; có những người giàu sang thì cũng phải có những người nghèo hèn; có những người sung sướng thì cũng phải có những người khổ đau; có những người tốt thì cũng phải có những người xấu; có những người quyền cao chức trọng thì cũng phải có những người cùng đinh mạt hạng; có những người chung thủy không lỗi đạo, thì cũng phải có những người không chung thủy lỗi đạo v.v…
Trên đời này mọi sự xảy ra đều do nhân quả sắp xếp. Nhân quả sắp xếp là do tiền kiếp không khéo gieo duyên thiện nên đời này phải trả quả khổ, Nếu trả vay không khéo thì lại vay trả mãi mà không hết. Hoàn cảnh của con xảy ra cũng vậy. Con có biết không?
Cuộc đời quá éo le, tưởng đâu có chồng con để hôm sớm cùng nhau, khi tối lửa lúc tắt đèn, để chia vui sẻ buồn, để an ủi cho nhau khi khổ đau, khi tai nạn và chăm sóc nhau khi đau ốm, bệnh tật v.v..
Nhưng nào ngờ nhân quả quá khắc nghiệt con gặp phải nhân quả không tốt, nên đành phải chịu những nỗi khổ đau riêng mình, phải nuôi và dạy con, phải lo gia đình trước sau một thân mình, phải gánh chịu sự cô đơn, chỉ có một mình quạnh hiu, biết tâm sự cùng ai, biết ai hiểu mình mà tâm sự. Phải không con?
Người xưa bảo: “Làm thân con gái có 12 bến nước, gặp bến trong thì nhờ, gặp bến đục thì chịu”, biết than thở cùng ai!
Đời con là một bến đục, có chồng mà cũng như không. Chồng lo cho chồng, chẳng nghĩ gì đến vợ, chẳng đái hoài gì đến các con, chỉ lo cho bản thân mình, lo cho người khác, để lại một gánh nặng nuôi dạy hai trẻ thơ, khi bệnh tật, khi tai nạn, lúc tối lửa khi tắt đèn, chỉ có một mình thật là khổ đau vô cùng, vô tận. Trước sau chỉ một mình lo toan biết nói gì đây, nói với ai bây giờ? Nghẹn ngào nước mắt cứ tuôn tràn như dòng suối đời khổ đau chạy mãi về phương trời vô tận. Nếu không có hai trẻ thơ này là nguồn an ủi thì phỏng chừng con có sống được hay không? Đêm nằm nghĩ tới nghĩ lui; đời người sống thật vô vị chẳng có gì là nghĩa, là tình, là hạnh phúc cả? Sống mà như chết. Sao con người ở đời bạc bẻo và độc ác đến thế! Bạc bẻo và độc ác hơn lòai thú vật. Loài chim quốc khi chim đực mất chim cái kêu suốt thâu đêm tiếng kêu thương não nùng ai oán, chim cái không còn thiết tha ăn uống nữa, lần hồi chim cái chết theo chồng; chim đực cũng vậy khi chim cái bị lưới rập, bị bắn chết, chim đực cũng kêu suốt ngày đêm tiếng kêu thương từ trái tim chung thủy vang lên không gian một tình thương bất diệt, cho đến khi sức tàn, lực kiệt chim đực cũng chết theo chim cái. Ôi! Thật là lòai chim sống mà chung tình đến thế! Xét lại con người thì sao? Con người sao mà manh tâm giả dối lường gạt vợ con, lan chạ kẻ khác mà không biết xấu, mặt chai mày đá, nay người này, mai người khác như như loài gia súc v.v…
 Biết bao cảnh đời ngang trái, biết bao nhiêu thương đau, làm sao kể cho xiết. Ai làm ra? Lòng tham dục đấy con ạ!
 Ở đời ai là người hiểu đạo đức? Ai là người thấy trách nhiệm và bổn phận làm người sống không không làm khổ mình, khổ người? Ai là người biết hy sinh cá nhân mình để làm tròn bổn phận làm cha, làm mẹ. Tội nghiệp thay cho những đức trẻ mồ côi cha hoặc mồ côi mẹ hoặc mồ côi cả hai. Nhất là chúng ta cũng không thể cầm được những giọt nước mắt thương đau cho những đức trẻ vẫn còn cha lẫn mẹ, nhưng vì ích kỷ cá nhân, cha và mẹ chúng đắm đuối đam mê danh, lợi và sắc dục, đành ly dị bỏ vợ, bỏ chồng, bỏ con chạy theo nhân tình thế thái. Mặc cho những đứa trẻ thơ vô tội sống ra sao cũng mặc, họ vẫn thản nhiên như những người xa lạ, họ xa lìa nhau, đành đoạn bỏ mặc những đứa bé bơ vơ, thiếu tình cha chăm sóc, thiếu lòng mẹ thương âu yếm. Vậy tình thương chăm sóc của cha bây giờ ở đâu? Lòng thương âu yếm của mẹ ở chỗ nào? Những đức trẻ thơ đang chờ đợi, đang mong ngóng từng ngày!!! Nhưng vô cùng tuyệt vọng. Cha như cánh chim trời lộng gió, mẹ thì thui thủi một mình bên các con. Ai là người sinh ra chúng? Ai là người mang nặng đẻ đau? Ai là người nuôi nấng chúng lớn khôn nên người v.v… Tương lai của chúng ra sao? Mờ mịt đen tối. Tội nghiệp thay biết nói gì đây!
Nhìn những cháu bé, con của những người khác đang cấp sách đến trường đang tốt nghiệp Đại học, còn con mình hiện giờ thì ra sao? Mình có gánh vác nỗi hay không, hay để chúng thất học như những đứa trẻ khác. Ôi! Càng nghĩ, ruột đau như ai cắt từng đọan. Thương thân phận bạc phần vô phước. Sống mà tương lai một mầu đen tối, không có chút hy vọng nào mà hòan cảnh xảy ra còn khổ đau nhiều hơn, nhiều hơn nữa.
“Trách ai bẻ gánh cang thường,
Để cho phận thiếp giữa đường bơ vơ”
Đừng buồn nữa con ạ! Hãy vui lên để mà sống, sống xem cuộc đời tràn đầy ác pháp, sống để chuyển biến nhân quả, đừng để nhân quả chuyển biến tâm con, Phải không con?
Hãy can đảm, đầy đủ nghị lực, đứng lên bằng hai chân của mình, chiến đấu tận cùng với bao nhiêu nghịch cảnh, đừng sợ hãi con ạ! Bên con còn có những người cảm thông những nỗi khổ u hoài trong con, sẵn sàng an ủi, khích lệ giúp con dũng cảm tiến lên, vượt thoát đường đời đầy chông gai cay đắng.
Muốn chuyển đổi sự đau khổ không gì bằng là tâm phải an vui, tâm phải nhìn thẳng vào cuộc đời. Đời toàn là ác pháp, là đau khổ như vậy. Đời mấy ai thương ai chân thật, thương sao làm khổ nhau quá vậy? Thương sao tạo cảnh khổ cho nhau…
Hãy tha thứ cho những người làm con khổ đau, hãy buông xuống những gì đang đau khổ trong lòng con.
“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữ làm chi có ích gì.
Thở ra chẳng lại còn chi nữa
Vạn sự vô thường buông xuống đi!”
Buông xuống tất cả mọi đau khổ trong lòng con thì ngay đó tâm con sẽ thấy an vui, thanh thản. Phải không con?
Còn nếu con không sáng suốt cứ ôm ắp mãi trong lòng những nỗi đau thương thì con phải chịu lấy sự khổ đau ấy, đấy là con bị qui luật của nhân quả chuyển biến và đang trả quả khổ đau. Còn nếu con xem đó là một điều hiển nhiên trong giai đoạn xã hội loài người đang bế tắt đạo đức nhân bản làm người. Vì thế con người ngày nay cứ mãi làm khổ cho nhau. Phải không con?
Chuyện đời có gì buồn đâu con ạ! Tất cả đều vô thường, nhà cửa, của cải, tài sản đều vô thường ngay cả bản thân của con cũng vô thường. Có ai giữ của cải, châu báu, ngọc ngà mãi đâu con! Khi xuôi tay trở về lòng đất thì có ai còn mang theo được những gì, ngay thân này còn phải bỏ, có gì giữ gìn được đâu mà không buông xuống phải không con?
Buông xuống để tâm hồn thanh thản, an vui; buông xuống để xem những người làm ác gây đau thương, rồi họ sẽ đi về đâu?
Buông xuống, buông xuống để giòng nước mắt con thôi chảy, để con còn đủ sức khỏe nuôi và dạy dỗ hai đứa con thơ dại đang nương vào đôi cánh tay yếu đuối của người mẹ thân thương, chúng còn biết trông cậy vào ai hỡi con?
Hãy nghe lời Thầy con ạ! Con hãy tự thắp đuốc lên, soi mà đường đi, con đường buông xả, con đường thanh thản, an lạc và vô sự, con đường hạnh phúc vô cùng con ạ! Ngoài con ra không còn ai giúp con được. Hãy mạnh dạn đứng lên con ạ! Đừng yếu đuối, hãy nhìn thẳng về phía trước. Dù đường đời có cay đắng khắc nghiệt bao nhiêu, con hãy xem nó như một tuồng cải lương trên sân khấu. Có gì thật đâu mà buồn khổ. Phải không con! Một trò diễn xuất của nhân quả có đáng gì cho con phải bận tâm đau lòng.
Cảnh đời đen bạc, đó là những việc thường xảy ra trong cuộc đời này, có gì mà phải bận tâm con ạ! Nó đến rồi nó sẽ đi, chỉ cần giữ gìn tâm bất động trước nó là nó chuyển đổi được sự khổ đau thành sự an vui ngay liền. Hãy nghe lời Thầy đi con!
Thăm và chúc con đầy đủ nghị lực vượt qua những điều cay đắng của cuộc đời.
Kính thư
Thầy của con .



Friday, December 27, 2013

THIỀN XẢ TÂM

Sau khi chứng đạt đạo quả giải thoát, đức Phật đã lấy kinh nghiệm tu tập của Người dựng thành lộ trình tu tập Giới – Định – Tuệ. Nhờ lộ trình tu tập này đã giúp các Thánh đệ tử của Phật chứng đạt chân lý, thành tựu quả vị A-la-hán, giải thoát hoàn toàn.

Giới luật, đức hạnh là nền tảng vững chắc, giúp hành giả tu tập diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp, chứng đạt tâm vô lậu tức là tâm không còn tham, sân, si nữa. Khi tâm không còn tham, sân, si thì tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là thiền định.

Vì vậy thiền định của đạo Phật nhằm vào đời sống thể hiện đức hạnh một cách nghiêm chỉnh để không phạm một lỗi nhỏ nhặt, để ly dục, ly bất thiện pháp.

Để sống đúng giới luật thì chúng ta phải thông hiểu Bát Chánh Đạo.

Sự tu tập giải thoát của đạo Phật không phải như từ nào giờ chúng ta hiểu là phải tu vô lượng kiếp. Giáo pháp của đức Phật là chân lý, là sự thật. Khi được hiểu và tu tập theo giáo pháp của Người thì ngay trong hiện tại chúng ta sẽ có được giá trị hạnh phúc an lạc. Pháp của đức Phật khi tu tập sẽ đoạn dứt dần các lậu hoặc tham, sân, si, mạn, nghi thì tâm được thanh tịnh. Thân tâm được thanh tịnh là trạng thái tâm vô lậu giải thoát.

Nếu trong tâm ta còn lậu hoặc thì thân tâm không thể thanh tịnh được. Ví dụ: khi ta đói bụng thèm ăn cái này, cái kia, hoặc khi nghe những điều trái ý nghịch lòng chúng ta lo lắng, sợ hãi, phiền não, nếu còn những việc này thì lậu hặc còn, như vậy thân tâm chưa thanh tịnh và chưa giải thoát được.

Do đó khi tu đúng pháp của Phật dạy thì nghiệp quả của thân không còn ý nghĩa gì cả, vì nghiệp quả khổ thành nghiệp quả phước báo nên thảnh thơi, an lạc, vô sự. Còn tu sai pháp thì muôn đời nghìn kiếp, nghiệp thân cứ tiếp tục mãi tái sanh luân hồi và phải chịu đựng thọ khổ vô lượng kiếp.

Thiền xả tâm giúp chúng ta có tiến bộ trong tu tập, tiến bộ từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày, chúng ta nhận thấy tâm thanh thản, an lạc và vô sự rất rõ ràng.

Để xả tâm được tốt thì phải giữ gìn giới luật, đức hạnh thật nghiêm chỉnh. Giới luật, đức hạnh là thiện pháp vô lậu.

Đức Phật dạy: “Muốn ước nguyện cầu một việc gì thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì ước nguyện ấy sẽ thành tựu”.

Người phật tử tu tập Tứ Chánh Cần để ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp. Phải phân biệt tăng trưởng thiện pháp vô lậu khác với thiện pháp hữu lậu.

Phân tích câu: “Ly dục, ly ác pháp”:

- Dục là lòng ham muốn đưa đến đắm nhiễm danh, lợi, sắc, thực, thụy. 

-  Ác pháp là trạng thái tâm phiền não như ích kỷ, giận hờn, hơn thua, nhỏ mọn, tham lam, tự ái, nghi ngờ…       

- Để ly các dục này phải dùng tri kiến giải thoát (định vô lậu) để tu tập. 

Đức Phật dạy các pháp thế gian là vô thường:

- Thân người là do nhân quả sinh ra. Sinh ra từ nhân quả, chết cũng trở về với nhân quả.

- Để giúp tâm mình xả bỏ ham muốn vật chất thế gian, hằng ngày chúng ta dùng pháp hướng tâm xả bỏ tâm đăm nhiễm. Ví dụ: tâm khởi muốn tiền nhiều, nhà cửa sang trọng, xe hơi, vàng bạc, giàu sang… mỗi khi tâm đối diện với vật chất ấy thì chúng ta biết nó là pháp vô thường, là khổ.

- Chỉ có đạo đức vô ngã, xả ly lòng ham muốn thì mới bảo vệ cho ước nguyện giải thoát của mình.     

- Hằng ngày biết sửa sai những lỗi lầm của mình. 

- Biết ngăn chặn không làm những điều ác. 

- Biết xa lìa những cám dỗ vật chất thế gian.   

- Biết tiết độ trong ăn uống ngủ nghỉ.

- Biết thiểu dục tri túc đối với đời sống.  

- Biết phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình.    

- Biết giữ chánh niệm để tâm được thanh thản, an lạc và vô sự. 

Lời Trưởng Lão Thích Thông Lạc dạy:

…Tóm lại chỉ có hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng tháng, hằng năm, lúc nào, thời gian nào đều phải quan sát trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp để đẩy lui các chướng ngại pháp trên đó để bảo vệ chân lý. Khi nào các chướng ngại pháp không còn tác động đến bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp là con đã thành tựu viên mãn sự tu hành của con. Chừng đó con đã chứng đạt chân lý nghĩa là lúc nào con cũng sống với tâm bất động mà không một chướng ngại nào tác động được, đến đây con đường tu tập của con đã hoàn thành: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành. Không còn trở lui trạng thái này nữa”.     

___
Nguồn: Bài này tôi được đọc trong TRÍCH LƯỢC TẠNG KINH NIKAYA - Bản trích lược của Thầy Bảo Nguyên.

Thursday, December 5, 2013

DI CHÚC CỦA LIỄU KIM GỬI LẠI CHO CHỒNG VÀ CÁC CON

Tâm nguyện của Liễu Kim
Con là Liễu Kim viết những dòng chữ này bên hành lang phòng xét nghiệm bệnh viện K – Hà Nội.
Trong lúc chờ đợt xếp hàng lần lượt, Liễu Kim con sợ phí uổng thời gian quí báu còn lại của cuộc đời, với thân bệnh nan y hiểm nghèo nên lúc này là lúc giành giật thời gian quí hiếm ở cõi đời còn lại.
Liễu Kim con vội chợt nghĩ đến công việc của người ra đi phải nói gì cho người còn ở lại?
Thân mến gửi anh và các con!
Hạnh phúc là cái gì?
Tìm được nó chúng ta phải tốn bao công lao?
Bảo tồn được nó chúng ta phải tốn bao công nhẫn nại?
Rồi đến khi mất nó! Chúng ta sẽ đau khổ biết chừng nào?
Vậy anh ơi! Biết được chân giá trị của nó, mỗi chúng ta phải biết trân trọng, giữ gìn nó từng phút, từng giây.
Có phải vậy không hỡi anh và các con? Năm mươi năm qua rồi, hạnh phúc vỏn vẹn được hơn 30 năm, với thời gian này quá ngắn ngủi đối với em, và sắp sửa chúng ta phải chia tay vĩnh viễn rồi.
Vì thế đức Phật mới dạy cho chúng sanh biết rõ hạnh phúc này là hạnh phúc giả không có thật, nó là vô thường, là vô ngã.
Bởi vậy, chính vì thế mà em khát khao đi tìm đến chân hạnh phúc, hạnh phúc vĩnh viễn, không còn bị chi phối vào không gian và thời gian. Đó là con đường đưa em đến cửa của đạo Phật.
Theo cách nhìn của thế gian thì chúng ta đã có một gia đình hạnh phúc lắm rồi phải không hỡi anh? Nhưng anh a! Chúng ta có yêu thương nhau bao nhiêu đi nữa, thì tình yêu ấy vẫn không thể che chở cho chúng ta khỏi những đau khổ của cuộc đời. Thực tế là như vậy, lúc này chúng ta đang phải chứng kiến cảnh sắp chia ly đau khổ.
Ngay bây giờ tuy có hơi muộn xong vẫn còn thời gian để chúng ta biến tình yêu thương này trở thành tình yêu thương cao thượng và thanh tịnh, đó là tình anh em, tình huynh đệ, tình đồng đạo để sách tấn nhau, để động viên tạo duyên lành cùng nhau tu hành theo pháp “Đường Về Xứ Phật” mà Thầy Thông Lạc đã dầy công tìm thấy. Nay để lại cho tất cả muôn người có pháp tu, để cuộc đời hết khổ. Trong đó có gia đình nhà mình phải không anh?
Em đã có đủ duyên phước gặp Thầy Chân Sư, Thầy đã quy y cho cả gia đình mình. Nay gia đình ta bảo nhau mà tu tập Tứ Chánh Cần, ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện, không làm khổ mình, không làm khổ người, sống theo mười điều thiện, luôn giữ gìn năm giới.
Em mong anh và các con lúc em ra đi về cõi vĩnh hằng rồi, thì hãy luôn nhớ đến lời di chúc này nhé!
Tủ sách quí “Đường Về Xứ Phật”, là kho báu vô giá anh và các con giữ gìn và bảo vệ hết đời này qua đời khác, lưu truyền đạo đức làm người, đạo đức nhân bản cho muôn đời sau không bao giờ mất. Đó là điều ước nguyện của em trước giờ phút ra đi mãi mãi không có ngày trở lại, mà có trở lại nữa thì điểm hẹn của chúng ta đó là quê hương của Đức Phật cùng các vị chư Hiền Thánh Tăng. Ở điểm hẹn là mùa xuân vĩnh cửu. Cả gia đình ta nhé!
Vắng em, anh và các con khéo thu xếp công việc gia đình, làm việc và học tập cho thật tốt.
Trong ngôi nhà nhỏ bé của chúng ta lúc nào cũng toát ra hương sắc của một mùi hoa thơm. Đó là hoa vô sắc của mùa xuân vô lậu vĩnh cửu thường hằng mãi mãi anh nhé!
Chào vĩnh biệt anh và các con, hẹn ngày gặp lại tại đất Thánh Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Đó là trụ xứ của vị Thầy của chúng ta. Nơi đó có Phật, có Thầy và có cô út Diệu Quang là biểu tượng của mùa xuân vĩnh cửu đó anh ạ! Nếu muốn tìm em thì đến đó là thấy liền.
Chào anh và các con.
Liễu Kim
TB: Trong lúc đứng ở hành lang chờ xét nghiệm con chợt nghĩ về Thầy và con viết:
Kính thưa Thầy!
Trải qua thời gian thân bệnh khổ. Thầy đã cứu con vượt qua từng cơn đau như ai cắt ruột gan.
Thầy không phải là giáo sư hay tiến sĩ y khoa, nhưng con thấy Thầy còn hơn thế nữa, là vì Thầy là y đức tuyệt vời nhất trên thế gian này, vì Thầy đã loại bỏ những ung nhọt trong tâm mà không cần phải phẫu thuật, không cần phải dùng thuốc (đó là các câu pháp hướng tâm để xả thọ khổ, xả đau, xả nhức...) mà con đã dùng hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây, là phao cho con đi biển trong cả thời gian con bị trả nghiệp thân đau đớn.
Con cúi xin cảm tạ ơn Thầy, ơn này đời sau con xin cố gắng tu hành để mau chóng đến ngày làm chủ bốn nỗi khổ của kiếp làm người. Con xin tri ân công đức Thầy.
Con của Thầy
Thích Nữ Liễu Kim

Saturday, November 23, 2013

Tâm thư Đức Trưởng lão gửi cô Liên Tâm

TÂM THƯ GỬI LIÊN TÂM
Ngày 17 tháng 11 năm 2008


          Kính gửi: Liên Tâm!

          Vợ chồng, con cái là nợ nhân quả của nhau trong tiền kiếp, nên kiếp này phải gặp nhau để trả quả, để đòi nợ nhau. Cớ sao các con lại không thấy nhân quả mà cho đó là chồng, là vợ, là con của các con. Nếu là chồng, là vợ, là con của các con sao họ lại đối xử với các con quá tệ bạc, quá bạo lực, đánh các con, chửi mắng các con thậm tệ v.v..

Các con có thấy chăng? Biết bao nhiêu gia đình trong xã hội này, có gia đình nào không xung đột, không cãi cọ, không mắng chửi nhau và họ còn dùng những lời lẽ thô tục, kém văn hoá mạt sát nhau như những người thù địch, họ lại còn đánh đập nhau, gây thương tích, để lại một vết thương tinh thần muôn đời khó quên. Trong khi đó họ là chồng, là vợ, là con là những người thân thương cùng sống trong một mái nhà, cùng nhau chia vui xẻ buồn lúc trở trời trái tiết, cùng nhau chia cay xẻ đắng lúc bệnh tật tai nạn, lúc nào đều cũng có bên nhau.Thế sao họ lại đối xử với nhau như vậy, thật là cay đắng trăm phần. Phải không hỡi các con?

Chính vì các con đang mê mờ, mù ám không thấy biết nhân quả trong ba thời gian: quá khứ, vị lai và hiện tại. Do không thấy biết nhân quả nên không sợ nhân quả quá khứ, không sợ nhân quả hiện tại và không sợ nhân quả tương lai, nên tạo cảnh bất an cho mình, cho người và cho cả hai. Bởi vậy kiếp trước vay như thế nào thì kiếp này phải trả như thế nấy, không ai tránh khỏi qui luật nhân quả này.

Đường đi của nhân quả có ba nơi trên thân người, nó luôn ở đó để thực hiện vay trả, trả vay từ kiếp này sang kiếp khác. Ba nơi này gồm có:

1-  Ý hành là bộ tham mưu của nhân quả, nó tính toán tư duy theo tưởng tri nên tạo ra muôn ngàn nhân, khi nhân đã tạo thì ngay đó liền có quả, đó là nhân hiện tại quả hiên tại, nhưng cũng có khi nhân hiên tại mà quả tương lai. Thường con người sinh ra trên cuộc đời này đều do nhân quá khứ, đó là nhân quá khứ thì quả hiện tại. Vì nhân quá khứ quả hiện tại nên mới thọ lấy thân người. Thọ lấy thân người nên mới trả quả khổ đau vô cùng, vô tận. Nhưng con người đâu biết các pháp là nhân qủa nên cứ đam mê ham thích những cái gì trên đời này cho nó là thật có, nó là ta, là của ta. Vì lầm chấp như vậy nên con người đã tạo biết bao nhân mới để rồi phải gặt biết bao quả khổ đau.
2- Khẩu hành là nơi xuất phát hành động ngôn ngữ do ý hành chỉ đạo để tạo ra nhân quả thiện hay ác. Trên đời này khổ đau vì khẩu hành không sao kể hết, nếu không mở miệng ra thì thôi mà mở miệng ra là có việc, không việc này thì việc khác, việc vui cũng có, nhưng việc buồn cũng không sao kể siết. Do nhân quả như vậy chúng ta làm người cần phải cẩn thận khẩu hành khi nói ra phải toàn lời nói thiện thì mới mong thoát khỏi mọi sự khổ đau trong cuộc đời này.

3- Thân hành là nơi xuất phát ra những hành động nhân quả tay chân do ý hành chỉ huy để tạo ra nhân quả thiện ác, cho nên hãy cẩn thận lúc nào cũng tỉnh giác khi làm một điều gì nên tránh không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Người tu sĩ Phật giáo những oai nghi chánh hạnh đi, đứng, nằm, ngồi phải nhẹ nhàng êm ái, không vội vàng, không hấp tấp, thường khoan thai, ôn tồn, êm dịu đối xử với mọi người mọi vật như nhau.

Do từ ba nơi này mà nhân quả theo đó điều khiển con người trả vay, vay trả mãi mãi từ đời này sang đời khác không bao giờ dứt. Cho nên các con hãy cẩn thận lời nói, hãy cẩn thận hành động tay chân, khi nói ra coi chừng trả quả khổ đau, khi nói ra coi chừng gieo nhân không lành. Về hành động tay chân cũng vậy, vì thế đức Phật dạy: “Chánh Ngữ và Chánh Nghiệp”.

Khi trả quả các con hãy vui vẻ chấp nhận trả nợ nhân quả thì có việc gì làm cho các con buồn lo được. Phải không hỡi các con?

Các con có biết không? Họ là chồng, là vợ, là con của biết bao nhiêu người khác, chứ đâu phải của riêng của các con mà các con ghen tuông nói thế này, nói thế khác, các con lại muốn chiếm hữu làm sao chiếm hữu được khi đang sống trong qui luật nhân quả. Có vay thì có trả, vay đâu thì trả đó. Cho nên mọi việc xảy ra trên đời này đều theo nghiệp nhân quả, thế sao các con không hiểu mà khư khư chấp có, chấp không để rồi lại buồn rầu than khóc khổ đau. Cái gì làm cho các con đau khổ? Chính các con không hiểu nhân quả nên cuộc đời các con mới khổ đau không bao giờ dứt.

Hãy cứu mình ra biển khổ, không ai cứu các con bằng chính các con, như đức Phật đã dạy: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi”. Đời toàn nhân quả khổ đau có vật gì trên đời này đáng cho các con tiếc rẻ. Phải không hỡi các con?

Tất cả các pháp trên đời này đều vô thường, có pháp nào vĩnh viễn thường hằng đâu? Có pháp nào là của các con đâu? Có pháp nào là bản ngã của các con? Rồi đây ngày mai các con chết thì chồng hay vợ và con của các con có còn là chồng, là vợ, là con của các con nữa đâu? Các con chết đi có mang họ theo được không? Hay chỉ chết một mình… Ôi thật là đau thương!

Nhân quả! Nhân quả! Sao người công bằng đến đổi không còn ai tránh né trốn chạy người được. Tạo nhân nào thì phải gặt quả nấy các con hãy cẩn thận, trước khi nói hay làm phải suy nghĩ cho thật kỹ rồi mới nói, mới làm, đừng vội vàng nói ra hay làm hấp tấp rồi sẽ gặt lấy quả mình khổ, người khác khổ hoặc cả hai cùng khổ. Đó là hành động nhân quả ác thiếu suy nghĩ chín chắn, thiếu cẩn thân trong lời nói hay trong hành động làm. Nếu các con bình tĩnh, cẩn thận, dè dặt suy tư chín chắn trước khi nói hay trước khi làm thì sẽ mang lại sự an vui cho mình, cho người hoặc cho cả hai, thì đó là các con thực hiện nhân quả thiện mà tránh được nhân quả ác.

Chỉ vì con người không sợ nhân quả nên nói và làm không cân nhắc kỹ lưỡng, vì thế nên luôn làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai thật là đáng trách.

Cuối cùng chúc các con vượt qua nghiệp lực và làm chủ nhân quả, đừng để nhân quả làm chủ các con.

                                      Kính thư,
                             Thầy của các con
                       Trưởng lão. Thích Thông Lạc


Friday, November 8, 2013

LY TRẦN VÔ CẤU


III. Phẩm Bệnh

74.I. Bệnh (1) (S.iv,46)

1) Nhân duyên ở Sàvatthi...

2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...

3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Trong tịnh xá của chúng con, bạch Thế Tôn, có một tân Tỷ-kheo ít người biết đến, bị bệnh hoạn, đau đớn, bị trọng bệnh. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi đến Tỷ-kheo ấy vì lòng từ mẫn.

4) Rồi Thế Tôn sau khi nghe tiếng "Mới", nghe tiếng "Bệnh", khi biết được: 

"Tỷ-kheo ấy ít được người biết đến" liền đi đến Tỷ-kheo ấy.

5) Tỷ-kheo ấy thấy đức Phật từ xa đi đến, sau khi thấy, liền gượng dậy trên giường.

6) Thế Tôn liền nói với Tỷ-kheo ấy:

-- Thôi! Này Tỷ-kheo, Ông chớ có gượng dậy trên giường. Có những chỗ ngồi đã soạn sẵn, tại đấy Ta sẽ ngồi.

Rồi Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn.

7) Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tỷ-kheo ấy:

-- Này Tỷ-kheo, Ông có kham nhẫn được không? Ông có chịu đựng được không? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không tăng trưởng? Có phải có triệu chứng giảm thiểu, không phải tăng trưởng?

-- Bạch Thế Tôn, con không thể kham nhẫn, không thể chịu đựng. Mãnh liệt là khổ thọ con cảm giác! Chúng tăng trưởng, không có giảm thiểu. Có triệu chứng tăng trưởng, không phải giảm thiểu.

8) -- Này Tỷ-kheo, mong rằng Ông không có gì nghi ngờ, không có gì hối hận.

-- Bạch Thế Tôn, chắc chắn con không có gì nghi ngờ, không có gì hối hận.

9) -- Nhưng đối với giới của mình, Ông có gì tự khiển trách không?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

10) -- Này Tỷ-kheo, nếu đối với giới của mình Ông không có gì để khiển trách, thời này Tỷ-kheo, Ông thế nào cũng có nghi ngờ đối với vấn đề gì, cũng có hối hận gì.

-- Bạch Thế Tôn, con không hiểu pháp Thế Tôn dạy về mục đích thanh tịnh trì giới.

11) -- Này Tỷ-kheo, nếu Ông không hiểu pháp Ta dạy về mục đích thanh tịnh trì giới, thời này Tỷ-kheo, Ông hiểu pháp Ta dạy như thế nào?

-- Bạch Thế Tôn, con hiểu pháp do Thế Tôn dạy là tham và đoạn tham.

12) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Ông hiểu pháp Ta dạy là tham và đoạn tham. Với mục đích tham và đoạn tham, này Tỷ-kheo, là pháp Ta dạy.

13) Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo, mắt là thường hay vô thường?
-- Là vô thường, bạch Thế Tôn...

-- Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... Ý là thường hay vô thường?

-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.

-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

-- Là khổ, bạch Thế Tôn.

-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

14) -- Thấy vậy, này Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt... "... không còn trở lui trạng thái này nữa".

15) Thế Tôn thuyết như vậy, Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Và trong khi lời dạy này được nói lên, Tỷ-kheo ấy khởi lên pháp nhãn ly trần vô cấu: "Phàm cái gì sanh khởi, tất cả đều chịu sự đoạn diệt".

(Tương Ưng - Tập IV - Thiên Sáu Xứ)

Thursday, November 7, 2013

Tiểu kinh Người chăn bò

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở giữa các bộ lạc Vajji (Bạt-kỳ) tại Ukkacela, trên bờ sông Hằng. Tại đây Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

-- Này các Tỷ-kheo.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:

-- Ngày xưa, này các Tỷ-kheo, tại Magadha có người chăn bò vô trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, không quan sát bờ bên này sông Hằng, không quan sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ không có thể lội qua được. Này các Tỷ-kheo, những con bò xô nhau tụ lại giữa dòng sông Hằng và gặp tai nạn tại nơi đây. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì người chăn bò ở Magadha là vô trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, không quán sát bờ bên này sông Hằng, không quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ không thể lội qua được.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn hay Bà-la-môn không khéo biết đời này, không khéo biết đời sau, không khéo biết ma giới, không khéo biết phi ma giới, không khéo biết tử thần giới, không khéo biết phi tử thần giới, những ai nghĩ rằng cần phải nghe, cần phải tin những vị này, thì họ sẽ gặp bất hạnh đau khổ lâu dài.

Ngày xưa, này các Tỷ-kheo, tại Magadha có người chăn bò có trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, sau khi quán sát bờ bên này sông Hằng, sau khi quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ có thể lội qua được. Người đó đuổi đi đầu những con bò đực già, những con đầu đàn. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đưa qua những con bò đực lớn mạnh, những con bò đực có được huấn luyện. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đuổi qua những con bò đực con, lớn, những con bò cái con, lớn. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Rồi người đó đuổi qua những con bò con nhỏ, những con bò con còn bú. Những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn. Này các Tỷ-kheo thời xưa ấy có con bò còn nhỏ mới sanh, con bò này nhờ chạy theo con bò mẹ, vừa chạy, vừa kêu, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, cũng qua bờ bên kia một cách an toàn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, vì người chăn bò ở Magadha là người có trí, vào cuối tháng mùa mưa, trong mùa gặt hái, sau khi quán sát bờ bên này sông Hằng, sau khi quán sát bờ bên kia sông Hằng, đuổi đàn bò qua bờ bên kia tại Suvideha, tại chỗ có thể lội qua được.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có những Sa-môn hay Bà-la-môn khéo biết đối với đời này, khéo biết đối với đời sau, khéo biết ma giới, khéo biết phi ma giới, khéo biết tử thần giới, khéo biết phi tử thần giới. Những ai nghĩ rằng, cần phải nghe, cần phải tin những vị này, thì họ sẽ được hạnh phúc, an lạc lâu dài.

Này các Tỷ-kheo, ví như những con bò đực già, đầu đàn, chúng đã lội cắt ngang dòng sông Hằng và qua bờ bên kia một cách an toàn (1). Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo là những bậc A-la-hán, đã đoạn trừ các lậu hoặc, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, các hữu kiết sử đã hoàn toàn bị đoạn diệt, đã được giải thoát nhờ chánh trí. Những vị này, sau khi lội cắt ngang dòng sông của Ma vương, đã qua bờ bên kia một cách an toàn.

Này các Tỷ-kheo, ví như những con bò đực lớn mạnh, những con bò đực có huấn luyện, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, qua bờ bên kia một cách an toàn.(2) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo sau khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, ở tại đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại thế giới này nữa. Những vị ấy, sau khi lội cắt ngang dòng sông Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn.

Ví như, này các Tỷ-kheo, những con bò đực con, lớn, những con bò cái con, lớn, những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, đã qua bờ bên kia một cách an toàn.(3) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo đã diệt trừ ba kiết sử, làm giảm thiểu tham, sân, si, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa, sẽ diệt tận khổ đau. Những vị ấy, sau khi lội cắt ngang dòng sông Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn.

Ví như, này các Tỷ-kheo, những con bò con, nhỏ, những con bò con còn bú, những con này sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, đã qua bờ bên kia một cách an toàn. (4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, nhất định không còn đọa vào ác đạo, đạt đến chánh giác. Những vị này lội cắt ngang dòng sông Ma vương và sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn.

Ví như, này các Tỷ-kheo, con bò con còn nhỏ, mới sanh, con bò này nhờ chạy theo con bò mẹ, vừa chạy, vừa kêu, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, đã qua bờ bên kia một cách an toàn. (5) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo tùy pháp hành, tùy tín hành, những vị này sau khi lội cắt ngang dòng sông của Ma vương sẽ qua bờ bên kia một cách an toàn.

Này các Tỷ-kheo, nay Ta khéo biết đối với đời này, khéo biết đối với đời sau, khéo biết đối với ma giới, khéo biết đối với phi ma giới, khéo biết đối với tử thần giới, khéo biết đối với phi tử thần giới. Những ai nghĩ rằng, cần phải nghe, cần phải tin nơi Ta, thì họ sẽ được hạnh phúc, an lạc lâu dài. (6)

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Sau khi Thiện Thệ nói vậy, bậc Ðạo Sư lại nói thêm bài kệ như sau:


Ðời này và đời sau,

Bậc Trí khéo trình bày,

Cảnh giới Ma đạt được, 

Cảnh Tử Thần không đạt.



Bậc Chánh Giác, Trí Giả, 

Biết rõ mọi thế giới,

Cửa bất tử rộng mở,

Ðạt an ổn Niết-bàn.



Dòng Ma bị chặt ngang, 

Nát tan và hư hoại,

Hãy sống sung mãn hỷ, 

Ðạt an ổn Niết-bàn,

(Này các Tỷ-kheo).

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt


Ðại kinh Người chăn bò

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở tại Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

-- Này các Tỷ-kheo.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:

-- Này các Tỷ-kheo, nếu không đầy đủ mười một đức tánh này, một người chăn bò không thể chăn giữ đàn bò, không thể khiến đàn bò được hưng thịnh. Thế nào là mười một? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một người chăn bò không biết rõ sắc (1), không khéo (phân biệt) các tướng (2), không từ bỏ trứng con bò chét (3), không băng bó vết thương (4), không có xông khói (5),  không biết chỗ nước có thể lội qua (6), không biết chỗ nước uống (7), không biết con đường (8), không khéo léo đối với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ (9), là người vắt sữa cho đến khô kiệt (10), là người không chú ý, không săn sóc đặc biệt những con bò đực già và đầu đàn (11). Này các Tỷ-kheo, người chăn bò nào không đầy đủ mười một đức tánh như vậy, không thể chăn giữ đàn bò, không thể khiến đàn bò được hưng thịnh.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không đầy đủ mười một pháp, không thể lớn mạnh, tăng thịnh, thành mãn trong Pháp và Luật này. Thế nào là mười một? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không biết sắc, không khéo (phân biệt) các tướng, không từ bỏ trứng con bò chét, không băng bó vết thương, không có xông khói, không biết chỗ nước có thể lội qua, không biết chỗ nước uống, không biết con đường, không khéo léo đối với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ, là người vắt sữa cho đến khô kiệt, đối với những Thượng Tọa trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có sự tôn kính, tôn trọng đặc biệt.

Chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không biết rõ các sắc? (1) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với sắc pháp không như thật biết tất cả loại sắc thuộc bốn đại và sắc do bốn đại hợp thành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không biết rõ các sắc.

Chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không khéo (phân biệt) các tướng? (2) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không như thật biết kẻ ngu và nghiệp tướng của người đó, kẻ trí và nghiệp tướng của người đó. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không khéo (phân biệt) các tướng.

Chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không trừ bỏ trứng con bò chét? (3) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thọ dụng dục tầm khởi lên, không từ bỏ, không tránh né, không chấm dứt, không làm cho không tồn tại,. Tỷ kheo thọ dụng sân tầm khởi lên ... thọ dụng hại tầm khởi lên ... thọ dụng các ác, bất thiện pháp khởi lên, không từ bỏ, không tránh né, không chấm dứt, không làm cho không tồn tại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không trừ bỏ trứng con bò chét.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không băng bó vết thương? (4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, khi mắt thấy sắc, nắm giữ tướng chung, nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì làm con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; Tỷ-kheo không tự chế ngự nguyên nhân ấy, không hộ trì con mắt, không thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy nắm giữ tướng chung, nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; Tỷ-kheo không chế ngự nguyên nhân ấy, không hộ trì ý căn, không thực hành sự hộ trì ý căn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không băng bó vết thương.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không xông khói? (5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có thuyết giảng rộng rãi cho các người khác biết Chánh pháp mình được nghe, được thọ trì. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không xông khói.

Và này, các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo không biết chỗ nước có thể lội qua? (6) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thỉnh thoảng có đến gặp những Tỷ-kheo đa văn được trao cho truyền thống giáo điển, những bậc trì Pháp, trì Luật, trì matika (các bản tóm tắt) nhưng không hỏi, không trả lời các vị ấy: "Thưa Tôn giả, điểm này là thế nào? ý nghĩa này là gì?" Những bậc Tôn giả ấy không làm cho hiển lộ những điều chưa hiển lộ, không làm cho rõ ràng những điều chưa được rõ ràng, và đối với những nghi vấn về Chánh pháp, các vị ấy không đoạn trừ nghi hoặc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không biết chỗ nước có thể lội qua.

Và chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không biết rõ chỗ nước uống? (7) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, trong khi Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết được giảng dạy, không chứng đạt nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, không chứng đạt sự hân hoan liên hệ đến Pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không biết chỗ nước uống.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không biết về con đường?(8)  Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không như thật biết con đường Thánh đạo Tám ngành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không biết đến con đường.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không khéo léo với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ? (9) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không như thật biết về Bốn Niệm xứ. Như vậy này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không khéo léo với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo vắt sữa cho đến khô kiệt? (10)  Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi các vị tại gia vì lòng tin cúng dường các vật dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, Tỷ-kheo không biết nhận lãnh cho được vừa đủ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo vắt sữa cho đến khô kiệt.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo, đối với những Thượng tọa trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có sự tôn kính, sự tôn trọng đặc biệt? (11) Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với Thượng tọa, trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có thân nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng, không có khẩu nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng, không có ý nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đối với những Thượng tọa, trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, không có sự tôn kính, sự tôn trọng đặc biệt.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không đầy đủ mười một pháp này, thì không thể lớn mạnh, tăng thịnh, thành mãn trong Pháp và Luật này.

Này các Tỷ-kheo, người chăn bò đầy đủ mười một đức tánh này có thể chăn giữ đàn bò, khiến đàn bò trở thành hưng thịnh. Thế nào là mười một? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người chăn bò biết rõ sắc, khéo (phân biệt) các tướng, trừ bỏ trứng con bò chét, băng bó vết thương, có xông khói, biết chỗ nước có thể lội qua, biết chỗ nước uống, biết con đường, khéo léo đối với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ, không vắt sữa cho đến khô kiệt, là người chú ý săn sóc đặc biệt, những con bò đực già và đầu đàn. Này các Tỷ-kheo, người chăn bò đầy đủ mười một đức tánh này có thể chăn giữ đàn bò và làm cho đàn bò trở thành hưng thịnh.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ mười một pháp này có thể lớn mạnh, tăng thịnh, thành mãn trong Pháp và Luật này. Thế nào là mười một? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, biết rõ sắc, khéo (phân biệt) các tướng, trừ bỏ trứng con bò chét, băng bó vết thương, có xông khói, biết chỗ nước có thể lội qua, biết chỗ nước uống, biết con đường khéo léo đối với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ, không phải là người vắt sữa cho đến khô kiệt, đối với những Thượng tọa, trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, có sự tôn kính, tôn trọng đặc biệt.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết rõ các sắc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với sắc pháp như thật biết tất cả loại sắc thuộc bốn đại và sắc do bốn đại hợp thành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết rõ các sắc.

Chư Tỷ-kheo thế nào là Tỷ-kheo khéo (phân biệt) các tướng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật biết kẻ ngu và nghiệp tướng kẻ ngu, kẻ trí và nghiệp tướng kẻ trí. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khéo (phân biệt) các tướng.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo trừ bỏ trứng con bò chét? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không thọ dụng dục tầm khởi lên, từ bỏ, tránh né, chấm dứt, làm cho không tồn tại. Tỷ kheo không thọ dụng sân tầm khởi lên ... không thọ dụng hại tầm khởi lên ... không thọ dụng các ác, bất thiện pháp khởi lên, từ bỏ, tránh né, chấm dứt, làm cho không tồn tại. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo trừ bỏ trứng con bò chét.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo băng bó vết thương? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo băng bó vết thương.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo có xông khói? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thuyết giảng rộng rãi cho các người khác biết Chánh pháp mình được nghe, được thọ trì. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo có xông khói.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết chỗ nước có thể lội qua? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thỉnh thoảng có đến gặp những Tỷ-kheo đa văn, được trao cho truyền thống giáo điển, những bậc trì Pháp, trì Luật, trì matika (các bản tóm tắt) có hỏi, có trả lời các vị ấy: "Thưa Tôn giả, điểm này là thế nào? Ý nghĩa này là gì? Những bậc Tôn giả ấy làm cho hiển lộ những điều chưa được hiển lộ, làm cho rõ ràng những điều chưa được rõ ràng, và đối với những nghi vấn về Chánh pháp, các vị đoạn trừ nghi hoặc. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết rõ chỗ nước có thể lội qua.

Và chư Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết rõ chỗ nước uống? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết, giảng dạy, chứng đạt nghĩa tín thọ, chứng đạt pháp tín thọ, chứng đạt sự hân hoan liên hệ đến Pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết chỗ nước uống.

Và các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết rõ về con đường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật biết con đường Thánh đạo Tám ngành. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết rõ con đường.

Và này, các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo khéo léo đối với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật biết về Bốn Niệm xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo khéo léo đối với các chỗ đàn bò có thể ăn cỏ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo không vắt sữa cho đến khô kiệt? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi các vị tại gia vì lòng tin cúng dường các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, Tỷ-kheo biết nhận lãnh cho được vừa đủ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo không vắt sữa cho đến khô kiệt.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo, đối với những Thượng tọa trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, có sự tôn kính, sự tôn trọng đặc biệt? Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với các Thượng tọa trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, có thân nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng, có khẩu nghiệp, đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng, có ý nghiệp đầy lòng từ đối với các vị ấy, trước mặt và sau lưng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đối với những Thượng tọa trưởng lão, xuất gia đã lâu ngày, bậc tôn túc trong Tăng giới, bậc lãnh đạo trong Tăng giới, có sự tôn kính, có sự tôn trọng đặc biệt.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đầy đủ mười một pháp này, thì có thể lớn mạnh, tăng thịnh, thành mãn trong Pháp và Luật này.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy, các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.


Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Link: http://buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-trungbo/trung33.htm

Friday, November 1, 2013

7 GIÁC CHI


  • Phương cách thứ bảy, tu tập tâm vô lậu bằng pháp Như Lý Tác Ý. Đức Phật đã dạy:“Có những lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ”.Như vậy, pháp thứ bảy là phải dùng tác ý “tu tập” để diệt trừ lậu hoặc. Vậy tu tập nghĩa là gì?
Tu tập là dùng ý thức tư duy, suy nghĩ cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác, v.v.. Chọn lựa từng câu tác ý cho hợp với đặc tướng của mình, hoặc chọn lựa những hành động nội ngoại của thân, để tạo thành niệm. Nhờ nương niệm ấy tu tập tỉnh giác, nhờ tỉnh giác an trú thân tâm, nhờ an trú thân tâm mới xả ly tham, sân, si, mạn, nghi được.
Thưa các bạn! Muốn tu tập để đoạn diệt lậu hoặc thì các bạn phải biết các pháp nào tu tập trước tiên. Vậy, pháp môn trước tiên để các bạn tu tập là pháp nào, các bạn có biết chăng? Có lẽ các bạn sẽ trả lời: Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, hay Định Niệm Hơi Thở, v.v.. Không phải đâu các bạn ạ! Pháp các bạn đầu tiên mới vào tu tập là pháp môn Bảy Giác Chi[1]. Vậy Bảy Giác Chi là gì? Bảy Giác Chi gồm có là:
1-      Trạch Pháp Giác Chi
2-      Niệm Giác Chi
3-      Tinh Tấn Giác Chi
4-      Khinh An Giác Chi
5-      Hỷ Giác Chi
6-      Định Giác Chi
7-      Xả Giác Chi
Muốn tu tập đoạn diệt lậu hoặc thì Trạch Pháp Giác Chi là pháp môn tu tập thứ nhất. Tại sao nó là pháp môn tu tập thứ nhất? Muốn biết tại sao nó là pháp môn tu tập thứ nhất thì phải hiểu nghĩa.
Vậy Trạch Pháp Giác Chi là gì? Trạch Pháp Giác Chi có nghĩa là chọn lựa pháp môn tu tập để được giác ngộ giải thoát. Người tu tập mà không biết chọn pháp môn tu hành là người thiếu cân nhắc, thiếu tư duy, thiếu sáng suốt, thường nhẹ dạ, yếu lòng, dễ bị người khác lừa đảo. Những người như vậy là những người mê tín, cuồng tín trong tôn giáo. Hầu hết một số người chỉ tin theo pháp môn Đại Thừa và Thiền Tông nên không chịu nghiên cứu, vì thế tu gần chết mà chẳng giải thoát được những gì, suốt đời chỉ tu tập, nhưng cuối cùng tay trắng cũng là tay trắng.
Bởi vậy, muốn tu tập thì phải chọn lựa pháp, chứ không lẽ muốn tu mà đụng pháp nào cũng tu tập pháp nấy sao? Tu như vậy là tu trong ngu si, dễ bị người khác lừa đảo pháp giả. Do không trạch pháp, dễ rơi vào cạm bẫy của tà pháp ngoại đạo. Vì không biết trạch pháp nên tín đồ Phật giáo đã rơi vào rọ lưới của Đại Thừa và Thiền Đông Độ. Biết bao nhiêu công sức và tiền của đồng bào Phật tử đổ vào nơiđây như núi như rừng, nhưng xét cho cùng thìchẳng cóích lợi gì, chỉ là một tâm lý thư giãn của những người cuồng tín.
Phật giáo Nguyên Thủy dạy chúng ta bắt đầu vào pháp tu tập là phải biết chọn lựa pháp. Chọn lựa pháp tức là Trạch Pháp Giác Chi. Vì qua kinh nghiệm tu hành của đức Phật ngày xưa, khi đi tu Ngài chỉ biết tin mù quáng theo lời dạy của các vị Bà La Môn, cho nên sáu năm khổ hạnh nơi rừng già, thân mình tiều tụy đi hết muốn nổi như sắp chết, mà chẳng được lợi ích gì cho kiếp đời khổ đau.
Sau khi tự tìm ra đường lối tu tập thì Ngài cảm thấy như không có gì khó khăn và mệt nhọc, chỉ cần biết cách xả tâm đúng như bảy trường hợp trên đây. Và trường hợp cuối cùng để xả tâm bằng những pháp môn tu tập, nhưng phải dùng pháp như lý tác ý đi song hành theo bảy trường hợp xả tâm.
Khi bắt đầu vào pháp tu tập thì phải sử dụng pháp Bảy Giác Chi, dù là sống đời sống Phạm hạnh vẫn phải sử dụng Giác Chi cho đến pháp tu cuối cùng để nhập các định và thực hiện Tam Minh cũng phải dùng Bảy Giác Chi, nhưng nó không phải là Bảy Phá pGiác Chi mà là bảy năng lực Giác Chi. Đây,chúng ta hãy đọc đoạn kinh này thì thấy rõ ràng là đức Phật đã dạy:
1/ “Này các Tỳ Kheo, ở đây, Tỳ Kheo như lý giác sát tu tập Niệm Giác Chi, Niệm Giác Chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
2/ “Này các Tỳ Kheo, ở đây, Tỳ Kheo như lý giác sát tu tập Trạch Pháp Giác Chi, Trạch Pháp Giác Chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
3“Này các Tỳ Kheo, nếu vị ấy không tu tập như lý giác sát tu tập Tinh Tấn GiácChi, Tinh Tấn Giác Chi này không y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
4/ “Này các Tỳ Kheo, nếu vị ấy không tu tập như lý giác sát tu tập Khinh an Giác Chi, Khinh an Giác Chi này không y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
5/ “Này các Tỳ Kheo, nếu vị ấy không tu tập như lý giác sát tu tập Hỷ Giác Chi, Hỷ Giác Chi này không y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
6/ “Này các Tỳ Kheo, nếu vị ấy không tu tập như lý giác sát tu tập Định Giác Chi, Định Giác Chi này không y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
7/ “Này các Tỳ Kheo, nếu vị ấy không tu tập như lý giác sát tu tập Xả Giác Chi, Xả Giác Chi này không y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
“Này các Tỳ Kheo, nếu vị ấy không tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa”.
“Này các Tỳ Kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ”.
 Đọc bài kinh trên, chúng ta thấy đức Phật dạy tu tập xả tâm rất tỉ mỉ. Mỗi tâm niệm trong ta khởi lên ở nhiều góc độ ác pháp khác nhau. Do đó, đức Phật đã chia làm bảy cách đoạn diệt lậu hoặc, tùy theo mỗi lậu hoặc dùng pháp tác ý mà diệt chúng. Có pháp môn tu tập trực tiếp diệt lậu hoặc như vậy, thế mà trên đường tu tập chúng ta còn gặp biết bao thứ lậu hoặc rất cứng đầu và khó trị. Cho nên, nhìn lại pháp tu tập của các Tổ sư thấy rõ chỉ Đại Thừa và Thiền Tông là những loại pháp môn tránh né, trốn chạy lậu hoặc. Tu như vậy, dù có tu muôn kiếp cũng chẳng đi đến đâu, chỉ uổng phí một đời tu mà thôi. Các bạn cứ suy ngẫm lại xem có đúng không?
Bài kinh trên đây là một bài kinh rất tuyệt vời giúp cho mỗi hành giả đoạn trừ lậu hoặc tận gốc.



[1] - Chúng ta phải hiểu và phân biệt cho rõ ràng Bảy Giác Chi có hai phần: 1- Bảy pháp Giác Chi; 2- Bảy năng lực Giác Chi.

(Trưởng lão Thích Thông Lạc. Những Lời Gốc Phật Dạy, tập 3, Nxb. Tôn Giáo, 2010)