Wednesday, April 29, 2020

Kinh Nhất dạ hiền giả


Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". --"Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

-- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng cho các Ông: 'Nhứt Dạ Hiền Giả' (Bhaddekaratta), tổng thuyết và biệt thuyết. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ thuyết giảng.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:

Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng. 

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là truy tìm quá khứ? 

Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy, "Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là truy tìm quá khứ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là tưởng của tôi... Như vậy là hành của tôi... Như vậy là thức của tôi trong quá khứ"; và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không truy tìm quá khứ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy là tưởng của tôi... là hành của tôi... là thức của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ước vọng trong tương lai.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là tưởng... sẽ là hành... sẽ là thức của tôi trong tương lai", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không ước vọng trong tương lai.

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc; hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ, hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ; hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong tưởng; hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc là trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ... không quán tưởng... không quán hành... không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.


Khi ta nói: "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông: 'Nhứt Dạ Hiền Giả', tổng thuyết và biệt thuyết", chính duyên ở đây mà nói vậy.


Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Friday, April 10, 2020

THIỀN XẢ TÂM



Sau khi chứng đạt đạo quả giải thoát, Đức Phật đã lấy kinh nghiệm tu tập của Người dựng thành lộ trình tu tập Giới, Định, Tuệ. Nhờ lộ trình tu tập này đã giúp các Thánh đệ tử của Phật chứng đạt chân lý, thành tựu quả vị A-la-hán, giải thoát hoàn toàn.
Giới luật, đức hạnh là nền tảng vững chắc, giúp hành giả tu tập diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp, chứng đạt tâm vô lậu tức là tâm không còn tham, sân, si nữa. Khi tâm không còn tham, sân, si thì tâm thanh tịnh, thanh tịnh là thiền định.
Vì vậy thiền định của đạo Phật nhắm vào đời sống thể hiện đức hạnh một cách nghiêm chỉnh để không phạm một lỗi nhỏ nhặt, để ly dục, ly bất thiện pháp.
Để sống đúng giới luật thì chúng ta phải thông hiểu bát chánh đạo.
Sự tu tập giải thoát của đạo Phật không phải như từ nào giờ chúng ta hiểu phải tu vô lượng kiếp. Giáo pháp của đức Phật là chân lý, là sự thật. Khi được hiểu và tu tập theo giáo pháp của người thì ngay trong hiện tại chúng ta sẽ có được giá trị hạnh phúc an lạc, đó là giải thoát. Pháp của đức Phật khi tu tập sẽ đoạn dứt dần các lậu hoặc tham, sân, si, mạn, nghi thì tâm được thanh tịnh. Thân tâm được thanh tịnh là trạng thái tâm vô lậu giải thoát.
Nếu trong tâm ta còn lậu hoặc thì thân tâm không thể thanh tịnh được. Ví dụ: Khi ta đói bụng thèm ăn cái này, cái kia, hoặc khi nghe những điều trái ý nghịch lòng chúng ta lo lắng sợ hãi, phiền não, nếu còn những việc này thì lậu hoặc còn, như vậy thân tâm chưa thanh tịnh và chưa giải thoát được.
Do đó khi tu đúng pháp của Phật dạy thì nghiệp quả của thân không còn ý nghĩa gì cả, vì chuyển nghiệp quả khổ thành nghiệp quả phước báo, nên thảnh thơi, an lạc, vô sự, còn tu sai pháp thì muôn đời nghìn kiếp nghiệp thân cứ tiếp tục mãi tái sinh luân hồi và phải chịu đựng thọ khổ vô lượng kiếp.
Thiền xả tâm giúp chúng ta có tiến bộ trong tu tập, tiến bộ từng phút, từng giây, từng giờ, từng ngày, chúng ta nhận thấy tâm thanh thản, an lạc và vô sự rất rõ ràng.
Để được xả tâm tốt thì phải giữ gìn giới luật đức hạnh thật nghiêm chỉnh. Giới luật, đức hạnh là thiện pháp vô lậu.
Đức Phật dạy: Muốn ước nguyện cầu một việc gì thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì ước nguyện ấy sẽ thành tựu.
Người phật tử tu tập Tứ chánh cần để ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp. Phải phân biệt tăng trưởng thiện pháp vô lậu khác với thiện pháp hữu lậu.
Phân tích câu: “Ly dục ly ác pháp”:
§  Dục là lòng ham muốn đưa đến đắm nhiễm: danh, lợi, sắc, thực, thùy.
§  Ác pháp là trạng thái tâm phiền não như: ích kỷ, giận hờn, hơn thua, nhỏ mọn, tham lam, tự ái, nghi ngờ…
§  Để ly các dục này phải dùng tri kiến giải thoát (định vô lậu) để tu tập.
Phật dạy các pháp thế gian là vô thường:
§  Thân người là do nhân quả sinh ra. Sinh ra từ nhân quả, chết cũng về với nhân quả.
§  Để giúp tâm mình xả bỏ ham muốn vật chất thế gian, hằng ngày chúng ta dùng pháp hướng tâm xả bỏ tâm đắm nhiễm. Ví dụ: Tâm khởi muốn tiền nhiều, nhà cửa sang trọng, xe hơi, vàng bạc, giàu sang…Mỗi khi tâm đối diện với vật chất ấy thì chúng ta biết nó là pháp vô thường, là khổ.
§  Chỉ có đạo đức vô ngã, xả ly lòng ham muốn thì mới bảo vệ cho ước nguyện giải thoát của mình.
§  Hằng ngày biết sửa sai những lỗi lầm của mình.
§  Biết ngăn chặn  không làm những điều ác.
§  Biết xa lìa những cám dỗ vật chất thế gian.
§  Biết tiết độ trong ăn uống ngủ nghỉ.
§  Biết thiểu dục tri túc đối với đời sống.
§  Biết phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, biết giữ chánh niệm để tâm được thanh thản, an lạc và vô sự.
Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC:
…Tóm lại chỉ có hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng tháng, hằng năm, lúc nào, thời gian nào đều phải quan sát trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp để đẩy lui các chướng ngại pháp trên đó, để bảo vệ chân lý. Khi nào các chướng ngại pháp không còn tác động đến bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp là con đã thành tựu viên mãn sự tu hành của con. Chừng đó con đã chứng đạt chân lý nghĩa là lúc nào con cũng sống với tâm bất động mà không một chướng ngại pháp nào tác động được. Đến đây con đường tu tập của con đã hoàn thành: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành. Không còn trở lui lại trạng thái này nữa”.
Thầy Thích Bảo Nguyên