Wednesday, January 29, 2014

Trở về với Thập Thiện

Để kết luận cái lộ trình thứ nhất thì Phật đã dạy chúng ta, muốn thông hiểu những gì cần phải thông hiểu. Bây giờ chúng ta đã thông hiểu cái lộ trình thứ nhất rồi thì đó là chúng ta đã muốn thông hiểu những gì cần phải thông hiểu, đó là cái giai đoạn của những người cư sỹ cũng như những người tỳ kheo hữu học, họ phải học, phải hiểu biết, họ thường xuyên quán xét vạn pháp, tâm họ phải rõ nguồn gốc vô minh, phá trừ những tư tưởng dính mắc chấp trước, hàng ngày tinh tấn tiến bước trên đường  về nội tâm của mình để đập tan những màn vô minh đen tối. Cho nên để kết luận cái lộ trình thứ nhất này thì chúng ta như Phật đã dạy, cái điều kiện thứ nhất ở trong 4 cái điều kiện thì sự thông hiểu là phải thông hiểu thứ nhất. Thì bây giờ chúng ta đã thông hiểu thì phải, thông hiểu tức là những bậc hữu học mới thông hiểu, còn nếu mà chúng ta không có chịu học hành, không có chịu nghe, không có chịu hiểu thì làm sao mà chúng ta hiểu. Cho nên ở đây qua giai đoạn mà quý thầy đã được nghe thầy giảng thì đó là cái chỗ mà thông hiểu để cho quý thầy rõ sự thông hiểu tất cả những điều kiện mà chúng ta cần thông hiểu trên con đường tu tập, lộ trình mà chúng ta phải tu tập. Cho nên khi mà thông hiểu như vậy đó là chúng ta đã tập tan màn vô minh đen tối mà từ lâu nó đang phủ dày ở trong  tâm tư của chúng ta. Quý thầy hãy lấy thập thiện làm vũ khí. Bây giờ thầy mới kết luận về cái...Bởi  vì lộ trình của người cư sỹ là phải lấy thập thiện mà làm cái điều kiện chiến đấu chống lại những sự si mê của mình. Cho nên ở đây quý thầy phải lấy thập thiện làm vũ khí phá trừ si mê, sẽ thành tựu 10 công đức mà kinh thập thiện đã dạy. Tức là kinh 10 điều lành đã dạy.
Một là không si mê, được ý vui chân thiện. Nghĩa là mình phải lấy thập thiện mình tu tập đó thì mình không có si mê, cái ý vui mà thiếu cái sự thiện ở trong đó. Nghĩa là bây giờ mình làm điều ác mà mình vui theo đó là nó không đúng. Cho nên mình phải lấy một sự vui chân thiện, mà không được có si mê ở trong cái điều ác, mà phải vui theo cái sự thiện chứ không phải là vui theo cái sự ác. Bởi vì Thầy có phân tích cho quý thầy thông rõ đõ, nó có 4  cái hỷ lạc của ác pháp, mà nó có 4 cái hỷ lạc của pháp xuất thế. Tức là nó có những cái vui, mà những cái vui đó là những cái vui ác. Còn cái vui mà vui của đạo, cái vui vượt ra, nó là thiện, cho nên ở đây nó ly ra. Tất cả các pháp ác thì nó có cái vui của các pháp ác, nó vui đó, làm cho chúng ta lầm chấp. Vậy chúng ta lấy thập thiện để chúng ta kê vào, để thấy biết cái vui nào chân thật mà cái vui nào không chân thật.
Cho nên ở đây cái thứ nhất là chúng ta không được si mê theo những cái vui của ác pháp mà hãy vui theo cái chơn pháp, cái thiện pháp. Đó là cái thứ nhất.  
Cái thứ hai là người cư sĩ phải tin sâu nhân quả. Mình phải tin ở cái nhân quả. Bởi vì nhân quả nó sẽ là trở thành một cái nghiệp, mà nghiệp thì nó trở thành một cái nơi mà nó sản sinh ra mình. Rồi cũng từ cái nhân quả đó mình mới tạo ra những cái nghiệp, rồi từ cái nghiệp đó đó khi mà sản sinh ra mình rồi mình tạo ra cái nghiệp thì tức là mình bỏ cái thân này mình cũng trở về nghiệp. Rồi từ cái nghiệp đó nó lại sản sinh ra mình nữa. Đó là mình đi trong cái lòng vòng của nhân quả mà mình không biết. Đó là mình tin sâu nhân quả để cho mình nó sẽ là trở thành một cái nghiệp, mà nghiệp thì nó trở thành một cái nơi mà nó sản sinh ra mình. Rồi cũng từ cái nhân quả đó mình mới tạo ra những cái nghiệp rồi từ cái nghiệp đó đó khi sản sinh ra mình rồi mình tạo ra cái nghiệp thì tức là mình bỏ cái thân này mình cũng trở về nghiệp. Rồi từ cái nghiệp đó nó lại sản sinh ra mình nữa. Đó là mình đi trong lòng vòng của nhân quả mà mình không biết. Đó là mình tin sâu nhân quả để cho mình thực hành cho đúng cái nhân thiện mà không làm cái nhân ác.
Ba, tin sâu ba ngôi Tam Bảo. Bởi vì Phật Pháp Tăng là cái nơi mà chúng ta phải nương tựa để chúng ta thoát ra khỏi cái nhân quả. Nếu chúng ta không có nương tựa tin sâu ba ngôi Tam bảo này thì chúng ta khó mà thoát ra nhân quả. Vì ba ngôi Tam bảo này đều đặt ở trên nền tảng của nhân quả cho nên cái hành động của Phật, Pháp và các vị Tăng là cái hành động không có ác pháp, cái nhân lành không có cái nhân ác ở trong đó. Vì vậy mà chúng ta tin sâu ba ngôi nhân quả tức là chúng ta đã thực hiện được cái nhân quả tốt không phải là cái nhân quả xấu. Đó thì ở đây thứ nhất là chúng ta tin nhân quả rồi, thứ hai chúng ta tin ba ngôi nhân quả tức là những cái người mà, những cái pháp mà dạy chúng ta thoát ra nhân quả, những cái người đã sống vượt thoát ra nhân quả, đó là Phật, là Tăng và những cái Pháp mà dạy chúng ta để vượt thoát ra nhân quả, đó là Pháp.
Bốn, tâm được Chánh kiến. Nghĩa là khi mà chúng ta dùng cái Thập Thiện mà chúng ta dùng nó làm vũ khí thì chúng ta sẽ có 10 cái điều mà chúng ta cần phải lưu ý là vui theo cái sự thiện, tin sâu nhân quả, tin sâu ba ngôi Tam Bảo. Tâm thì nếu mà chúng ta tin sâu ba ngôi Tam Bảo thì luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thấy cái đúng chứ không còn thấy cái sai nữa. Bởi vì tin nhân quả, rồi tin ba ngôi Tam Bảo thì những cái gì mà ở trong ba ngôi Tam Bảo này dạy thì đó là những chính kiến của chúng ta.
Năm, không đọa ba đường ác. Nghĩa là cái người mà có Chánh kiến rồi thì lúc bấy giờ ba cái đường ác họ không có rơi vào trong đó. Còn nếu chưa có Chánh kiến thì lúc thì sân, lúc thì phiền não, lúc thì làm điều này lúc làm điều kia thì đều là tạo cho chúng ta có những đau khổ liên tục ở trong hiện tại chứ không phải là ba đường ác là chờ chúng ta để chết đi rồi mới đọa xuống địa ngục mới gọi là ba đường ác đâu. Trong cuộc sống hiện tại của chúng ta nó đã có ba đường ác ở trong đó rõ ràng. Cho nên vì vậy khi tâm được Chánh kiến rồi thì chúng ta đoạn dứt được ba cái đường ác này. Và khi mà ba cái đường ác này nó không có thì cái phước huệ của chúng ta không lường được, nghĩa là cuộc sống của chúng ta hạnh phúc vô cùng, nó rất là an vui.
Bảy, thấu rõ đường tà, tiến vào đường chánh. Lúc bấy giờ chúng ta thấy rõ đường nào là tà đường nào đường chánh chúng ta thấy rõ, vì vậy mà trên con đường chúng ta tiến tới nó thuộc về nhân lành chứ không bao giờ có nhân ác ở trong đó.
Tám, xả ngã diệt tâm, chuyển hết nghiệp ác. Nghĩa là lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta lần lượt nó xả được cái ngã, nó diệt được cái tâm ham muốn của chúng ta, nó chuyển được hết các nghiệp ác nghĩa là tất cả những cái nghiệp ác từ lâu mà chúng ta đã tích trữ mà khi chúng ta chưa có biết được Phật Pháp đó, chưa có biết nhân quả đó, chúng ta đã có những cái nhân ác nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta ở trong cái nhân ác đó mà nó tạo thành cái quả của chúng ta mà hiện giờ chúng ta đang ôm ấp những cái quả đó đó, thì khi mà tới khi mà rõ được thấu suốt cái này thì chúng ta chuyển được cái, xả được cái ngã diệt được cái tâm thì chuyển được tất cả những cái nghiệp ác, cái quả ác ở trong cái cuộc đời chúng ta đang nhận, đang thọ lãnh đó. Nó chuyển sạch ra hết, làm cho chúng ta không còn khổ đau nữa. Mặc dù đứng trước mọi cảnh nào, mọi cái tình huống nào chúng ta cũng không còn khổ nữa.
Chín, luôn luôn trụ Chánh kiến. Lúc nào chúng ta cũng ở trong cái sự hiểu biết, luôn luôn lúc nào cái hiểu biết của chúng ta cũng chơn chính chứ không phải bị chấp cái này, chấp cái kia chấp cái nọ.
Và cái cuộc sống của cái người này, thứ mười, là cuộc sống người này không còn bị tai nạn nữa. Nghĩa là thay vì người ta bị nhân quả thì người ta sẽ gặp tai nạn này tai nạn khác hay là hoặc chuyện này hoặc chuyện khác thậm chí như bệnh tật thì đó là những cái có thể nói đến là làm cho con người đau khổ đó thì cái người mà người ta thực hiện được, người ta lấy mười điều lành này mà người ta làm vũ khí để người ta chiến thắng thì người ta có được mười điều lợi như vậy đó thì cuộc đời của người ta kể từ đây người ta chuyển hóa được cái nhân quả, chuyển hóa được cái nghiệp ác của người ta thì do đó trước những cái hoàn cảnh nào, trước những cái đối tượng nào thì những cái tai họa, tai nạn mà xảy đến, họ hoàn toàn họ vượt qua được hết, không bao giờ còn có một cái gì mà bủa vây làm cho họ khổ sở trong tâm hồn của họ được. Thậm chí như cái bệnh họ đau nhức đến mà có thể nói rằng cái sức tận cùng chịu đựng của thân họ, họ cũng vẫn thản nhiên, bởi vì họ đã thực hiện được đúng Thập Thiện cho nên họ thấy hoàn toàn tâm họ bất động trước những cái đau khổ nhất của cái thân của họ, họ vẫn thản nhiên. Cho nên họ thoát khỏi tai nạn là như vậy, họ chuyển hóa được cái nghiệp, cái nghiệp ác của họ, cái quả ác của họ cho nên họ không còn thấy đau khổ nữa.
Người tu Thập Thiện thường chế ngự lòng buông lung, phóng dật, bỏ các nghiệp dữ, thành tựu các nghiệp lành, chuyển đời khổ đau, bất an, bất toại nguyện thành đời sống an vui hạnh phúc, mọi việc đều được toại nguyện như ý, đời sống luôn thuận theo chánh đạo. Tu Thập Thiện chỉ có người trí mới có ý thức hiểu được sự lợi ích của nó đối với cuộc sống. Tâm thường quyết thực hành, sống cho bằng được. Nhờ có quyết tâm sống đúng mười điều lành chúng ta mới chuyển được kiếp sống địa ngục lầm than đầy khổ đau phiền muộn biến thành cảnh thiên đàng, an lạc, hạnh phúc, an vui.
Đó thì, nội cái Thập Thiện không thì quý thầy đã thấy rằng Thập Thiện nó thuộc về nhân quả cho nên nói nhân quả thiện tức là cái nhân quả ác nó sẽ bị diệt đi, mà nó diệt đi thì nó đem lại cái đời sống an lạc hạnh phúc cho con người. Do thế cái điều kiện mà quan trọng cho cái con người ở trên cái hành tinh này là cái điều kiện là phải họ phải thực hiện những điều lành từ cái bàn tay, cái khối óc, cái hành động của họ, cái miệng của họ mà thực hiện điều lành thì họ mang lại cái sự an lạc, hạnh phúc cho đời sống của họ. Mà nếu họ từ cái hành động thân khẩu ý của họ mà họ thực hiện điều ác thì tự họ họ cũng đem lại cái sự đau khổ, cái sự bất an, cái sự bất toại nguyện cho họ và chính cái chỗ này cho nên đó là cái vấn đề trọng đại của Đạo Phật chứ không phải cái sự trọng đại của Đạo Phật là chúng ta ngồi thiền, nhập định, làm chủ sự sống chết, chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Cái đó là cái thiểu số, cái đó là cái số ít, cái số ít người, còn cái chỗ mà Thập Thiện này là cái chỗ đông người, mọi người làm được, đem lại một cái hạnh phúc cho mọi người an vui thanh bình, đem lại cho một cái xã hội có trật tự, cho con người biết thương nhau, cho con người không xa lìa với nhau, đem lại cho con người sống chan hòa một tình thương phủ trùm bên nhau. Đó là Thập Thiện đó.
Vì vậy mà cho nên cái lộ trình thứ nhất này á mà quý thầy đã thấy là cái người mà theo đạo Phật người ta phải thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm: Từ Bi Hỉ Xả. Để làm gì? Để thực hiện cái tình thương chan hòa với nhau, để xây dựng một cái đời sống biết thương nhau, biết giúp đỡ nhau, biết an ủi nhau. Vì con người sinh ra là do nhân quả cho nên nhân quả là phải có sự khổ đau, mà đã thực hiện được tâm Từ Bi Hỉ Xả thì do đó nó mới hết khổ đau, con người mới chấm dứt sự khổ đau. Cái mục đích đó là cái mục đích chính của Đạo Phật, để đem lại sự thoát khổ cho con người chứ không phải cái mục đích mà nhắm vào chỗ mà tu tập cao siêu đến cái mức độ mà có dùng Tứ Như Ý Túc là biến hóa thần thông phép tắc, không phải là mục đích đó đâu. Mà cái chính của đạo Phật là cái chỗ Thập Thiện này, là cái chỗ nhân quả lành này chớ không phải là nhân quả ác.
Muốn hưởng được phước báu trời người thì hãy dứt trừ, từ bỏ, xa lìa, viễn ly mười nghiệp ác, mười điều dữ đó. Hàng ngày trau dồi tu tập mười điều lành, cứ mỗi lần bỏ xuống một nghiệp ác thì ngay đó nghiệp lành hiện ra. Thiện nghiệp càng nhiều, thân tâm càng được thanh thản an vui, sống không biết khổ, không biết khổ đau, không biết chán chường, biết được sự lợi ích và quả giải thoát lớn cho kiếp sống con người và xã hội. Người cư sĩ phải quyết tâm nỗ lực thực hiện bằng mọi cách để sống đúng mười điều lành mà Đức Phật đã đem hết tâm huyết mình truyền lại cho đời sau để người đời, để con người trong cuộc sống được an vui, hạnh phúc bên nhau.
Kinh Thập Thiện dạy cứ tiếp tục mãi xây dựng, trên đường xây dựng tư tưởng và cuộc sống toàn Thập Thiện không còn một chút Thập Ác thì sẽ được 4 ưu điểm trong cuộc sống:


Một, thân tâm thanh thản, nhẹ nhàng, an lạc, thường hiển lộ một niềm vui bất tận. Đó là cái thứ nhất lợi ích thứ nhất của Thập Thiện đó, nó làm cho thân tâm của mình nhẹ nhàng, thanh thản, tâm hồn lúc nào cũng an vui với cái sự an vui của 10 điều lành. Hành động thân khẩu ý biểu lộ đầy đủ đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người. Lòng hiếu sát, hung hăng xưa kia biến mất, lòng từ bi bác ái hiện rõ. Đối với người khác và loài vật đều thương, thường lấy câu “lấy ân trả oán” thì oán sẽ trở thành ân nghĩa và thương yêu nhau.
Hai, tâm không còn giận hờn thì dù oán, dù bất cứ sự việc gì cũng tiêu tan, con người đối với con người không còn sự đấu tranh giết hại lẫn nhau chỉ còn một lòng tương thân tương ái, xã hội con người không còn biết ghét nhau giận nhau, chỉ có một lòng thương yêu duy nhất.
Chúng ta hôm nay có đủ duyên lành mới được nghe lời thuyết giảng dạy của Đức Phật để thông hiểu và trau dồi và dứt bỏ, để tu tập Thập Thiện. Pháp môn Thập Thiện rất cụ thể, thực tế, có thứ lớp trong khi thực hành rất khoa học để cho mọi người dễ dàng thực tập sống đúng Thập Thiện đạt được cuộc sống hạnh phúc an lạc đầy đủ. Đã quyết tâm tiến bước lên đường về đất Phật nếu không khởi hành bằng đường Thập Thiện thì đừng mong đến xứ Phật được. Ba đời chư Phật và các bậc Thánh hiền thoát vòng sanh tử chứng quả vô thượng bồ đề, sống và tu tập đúng Thập Thiện. Các ngài lấy Thập Thiện làm nền tảng vững chắc để xây dựng ngôi nhà thiền định của mình.
Thập Thiện có công năng giúp ta ngăn ngừa các hành vi độc ác thân khẩu ý của mình, nhờ thế tất cả hoàn cảnh đều được yên vui, an lành và hạnh phúc. Thập Thiện giúp cho 3 nghiệp thân khẩu ý của chúng ta lần lần tiêu tội và được thanh tịnh. Nhờ thân khẩu ý thanh tịnh, thân tâm chúng ta mới thanh tịnh. Nhờ thân tâm thanh tịnh, chúng ta mới tịnh chỉ các hành trong thân. Nhờ tịnh chỉ các hành trong thân, chúng ta mới nhập định. Nhờ nhập định, chúng ta mới khai triển trí tuệ Tam minh. Nhờ Tam minh, chúng ta mới diệt sạch lậu hoặc. Nhờ diệt sạch lậu hoặc, chúng ta mới làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Người biết tu Thập Thiện và sống đúng Thập Thiện là người đầy đủ hạnh phúc nhất trần gian. Nhờ tu Thập Thiện, vạn pháp không còn là chướng ngại của tâm thì sự đau khổ phiền não đoạn dứt, thân tâm thường được an ổn, thanh thản, đời sống hạnh phúc và phước báu rõ ràng. Thập Thiện là cái nhân đoạn dứt ba đường ác khổ trong thân tâm, tuy ta còn ở cõi Ta bà nhưng cuộc sống của chúng ta như ở cõi trời, cõi thiên đàng. Thông hiểu rõ sự lợi ích lớn của pháp môn này, chúng tôi thành tâm khuyến khích mọi người cư sĩ cũng như tu sĩ đừng thấy pháp môn Thập Thiện chê nó là pháp môn thấp bé, cho nó là những người ngu mới tu hành pháp này. Hiểu như vậy rất là lầm lạc. Thập Thiện là pháp môn tu tập rèn luyện đạo đức nhân quả cho mỗi con người trở thành tốt đẹp và xây dựng xã hội thanh bình an lạc. Vì vậy trước tiên quý vị phải tu tập Thập Thiện, đừng ngồi thiền như cây, như đá chẳng ích gì cho mình, cho người, cho xã hội. Ngồi thiền riết không thành Phật mà thành cóc, hễ ai đụng tới thì tham sân si mạn nghi nổi lên ầm ầm như sóng bủa, hở ra một chút thì chướng tâm ngại ý, luôn luôn tâm hồn bất toại nguyện, sống trong cảnh nào cũng bất an.
Đó thì quý thầy thấy có nhiều người tu thiền rồi cứ dính mắc cảnh này cảnh kia. Bây giờ ở trong cảnh này xe cộ rần rần, nhà máy chạy xình xịch như vậy đó thì cảnh này tu hổng được đâu, tui đi tìm rừng rú không tiếng động tui mới tu được. Đó là mình bất an, bất toại nguyện ở trong trước cái cảnh của mình rồi, tu thiền thì đâu có động tâm như vậy? Cho nên cái người mà thực hiện Thập Thiện người ta không có động tâm cái điều đó đâu, cho nên lúc bấy giờ người ta thực hiện thiền định ở cảnh nào người ta tu cũng tốt hết. Còn mình thì cứ lo tìm cái cảnh yên tịnh để mà tu thiền định nhưng mà cuối cùng thì đụng cảnh nào cũng bị động hết, không có cảnh nào mà gọi là toại nguyện cho mình. Tu như vậy không giải thoát mà địa ngục mở cửa đón chờ, quỷ sứ hầu hạ.
Thập Thiện là đường lối, là pháp môn rèn luyện con người sống đạo đức không làm khổ mình khổ người, không làm rối loạn xã hội, đem lại sự an vui cho người, cho mình, cho xã hội. Vậy quý thầy cần phải siêng năng tu tập và rèn luyện thân tâm mình trong pháp môn Thập Thiện này, nó là pháp môn rất quý báu ở thời đại trong thế gian hiện đại của chúng ta.
Để kết thúc cái giai đoạn tu Thập Thiện bằng một bài kệ, phàm con người ở đời, đây là cái bài kệ đây:
Phàm con người ở đời
Búa rìu từ trong miệng
Sở dĩ giết chết mình
Là do lời nói độc
Người đáng chê thì khen
Người đáng khen thì chê
Đây thuộc nghiệp ác khẩu
Mà thân chịu hành khổ.
Đó là bài kệ trong kinh Thập Thiện, khi mà đến kết luận của bài Thập Thiện thì Thầy rút ra một bài kệ trong tất cả các kệ ngôn của Phật nói về những điều mà làm ác của mình thì Phật lại lấy lời nói của chúng ta mà cho đó là bởi vì ở trong Thập Thiện thì về cái hành động của khẩu nó có 4 cái hành động ác khẩu chứ không phải 1, mà về thân thì nó có 3, về ý có 3 mà về khẩu rất nhiều cho nên Phật mới nhắm vào cái chỗ khẩu nghiệp, mà tạo cho con người ta đau khổ nhiều nhất là cái khẩu nghiệp, nói ra thì có chuyện này nói ra có chuyện kia đó.
Cho nên ở đây bài kệ đó Đức Phật lấy từ chỗ khẩu nghiệp mà nói ra để chúng ta biết rằng chúng ta khổ sở là do cái nghiệp khẩu của chúng ta rất nhiều.
Phàm con người ở đời
Búa rìu từ trong miệng.
Đức Phật nói lời nói của mình như búa rìu đó, sở dĩ giết chết mình, nó giết mình chết mà nó giết người khác nữa chứ không phải là nó giết mình đâu.
Là do lời nói độc
Người đáng chê thì khen
Người đáng khen thì chê
Đây thuộc nghiệp ác khẩu
Mà thân chịu hành khổ.
Chỉ lấy Thập Thiện mà lấy về cái khẩu nghiệp, về 4 điều thiện, 4 điều ác của cái miệng mà tạo con người quá khổ, mất hạnh phúc ở trong cuộc đời này. Cho nên kế tiếp thì Phật có đem ví dụ:
Dùng chú thuật đạt lợi
Tội ấy cũng còn nhẹ
Nghĩa là mình dùng bùa chú mình làm để mình lấy của người ta đó thì Đức Phật xem như là cái tội đó còn nhẹ hơn là cái tội mà mình dùng ác khẩu của mình đó. Đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai thì Đức Phật cũng đem so sánh nữa:
Nếu lấy kinh điển Phật
Hiểu không thấu nghĩa lý
Thành hủy báng Thánh hiền
Tội ấy rất là nặng.
Nếu mà đem kinh điển của Phật mình dạy cứ thiền định không đó thì tức là người ta không có hiểu được cái nghĩa lý của những cái điều mà tạo ra những cái đau khổ cho con người như thế này thì đó là mình phỉ báng Phật Pháp rồi. Cho nên hầu như người ta cứ lấy kinh điển Phật mà người ta cứ lo tu thiền mà người ta không có tu thiện cho nên từ đó mà con người khổ vẫn hoàn khổ, cho nên đó là chỗ cái bài kệ này Đức Phật đem chúng ta thấy để chúng ta nhận cho rõ.
Nếu lấy kinh điển Phật
Không hiểu thấu nghĩa lý
Tức là mình không hiểu cho nên mình lấy đó để mà mình tu thiền mà mình không thấy được cái Thập Thiện vì vậy thành ra hủy báng Phật Pháp đó. Bởi vì bài kệ này nó liên tục để Đức Phật thấy cái chỗ mà chúng ta hiểu sai, mà không hiểu Thập Thiện mà lại hiểu về thiền định, hiểu về 4 thiền, 8 định hay hoặc là Tam minh mà không hiểu được cái chỗ căn bản nhất của đạo Phật, mà lợi ích nhất của đạo Phật đối với con người. Bởi vì đạo Phật nhằm ra đời là để giải quyết nỗi khổ của con người chứ đâu phải giải quyết Tam minh, đâu phải giải quyết cái sự vi diệu thần thông phép tắc đâu, đâu có giúp con người làm cái chuyện đó mà giúp cho con người thoát cảnh khổ, biết thương nhau, biết đùm bọc nhau để biết xoa dịu sự khổ của nhân quả nghiệp báo mà mỗi con người đều đã có mang theo nó ở trong thân tâm của mình rồi. Cho nên ở đây mà hiểu kinh điển của Phật theo cái kiểu mà cứ biết thiền, biết định không thì cái đó là cái hiểu sai, cái đó thành hủy báng Phật Pháp, cái tội đó rất nặng. Cho nên chúng ta phải trở về với Thập Thiện thì chúng ta mới hiểu đúng Phật Pháp, mà không trở về với Thập Thiện thì chúng ta hiểu sai Phật Pháp.
Đây bài kế nữa, Đức Phật cũng nhấn mạnh chỗ này để chúng ta thấy:
Nếu lấy kinh điển Phật
Không thấu hiểu nghĩa lý
Không thực hành viên mãn
Lại đem dạy người khác
Thành hủy báng Thánh hiền
Tội ấy còn nặng hơn.
Bây giờ mình thực hiện Thập thiện chưa được, mình còn làm chạy theo ham muốn, mình còn làm những điều ác bằng những cách này bằng những cách khác, thế mà mình thực hiện chưa xong rồi mình đem mình dạy người khác, người khác người ta cũng thực hiện chưa xong, đó là mình phỉ báng Phật pháp. Thay vì kinh điển của Phật đem ra dạy người để cho người ta được cái hạnh phúc an vui, được cái sự thương yêu nhau thì cái đó là cái đúng mà bây giờ người ta không thương nhau mà người ta theo đạo Phật mà người ta giày xéo lên nhau bằng cách này bằng cách khác thì thử nghĩ đạo Phật bây giờ là đạo cứu khổ mà bây giờ cứu ai đâu bây giờ? Càng ngày họ càng học Phật pháp họ lại càng huênh hoang nữa thì cái điều đó là điều càng lúc càng sai và cái người mà không hiểu Phật pháp đem kinh điển của Phật pháp dạy như vậy đó thì cái người đó phải thọ lấy những cái tội còn nặng hơn.
Đó là kết thúc bài kinh mà cái lộ trình thứ nhất tu tập về Thập thiện – mười điều lành để dứt trừ mười điều ác là lộ trình thứ nhất để chúng ta biết được cái đúng của đạo Phật mà chính cái chỗ này là mục đích của đạo Phật muốn đem cái giáo pháp này để giúp cho đời thoát khổ chứ không phải để giúp cho chúng ta có những thiền định cao siêu làm chủ sống chết, để làm cho người ta thấy ờ cái ông đó nhập định không có thở nữa hay hoặc là biến ra nhiều thân hay hoặc là hóa lửa, hóa hào quang. Điều đó không phải là chỗ mục đích của đạo Phật đâu cũng như không phải là ngồi đó mà thực hiện Tam minh nhớ lại nhiều đời nhiều kiếp của mình gọi là cái đó hay đâu. Cái chính của đạo Phật là cái chỗ làm sao cho con người ở trên thế gian này, trên hành tinh này là không còn khổ nữa.
Cuộc sống không có cần thánh thiện gì hết mà chỉ biết thương nhau, chỉ đừng làm khổ nữa, mà chính những bàn tay khối óc của họ họ hành đúng ba hành động thân khẩu ý của họ toàn là thiện thì họ sẽ gặt được cái quả tốt của đời sống của họ. Từ đó họ chấm dứt được sự đau khổ, chính bàn tay của họ cho nên Phật gọi là “tự thắp đuốc lên mà đi”. Đi ở trong con đường thiện để cứu lấy mình chứ đâu phải đi trên con đường thiền định để mà cứu có một mình mình. Bây giờ Thầy nhập định được, thử hỏi bây giờ quý thầy bây giờ quý thầy muốn chết như Thầy được không, mà Thầy có làm gì cho quý thầy chết được không? Có đâu được. Thầy bảo hơi thở thầy ngưng, còn quý thầy, Thầy bảo dùm cho các thầy, Thầy bảo hơi thở của các thầy ngưng, có ngưng được không? Thầy chỉ ngưng có mình thầy hà. Còn bao nhiêu người đó muốn chết không có được. Bây giờ nó gần dở chết dở sống, đau khổ gần chết mà bảo ngưng hoài nó ngưng không được. Thầy đâu có bảo được, Thầy chỉ có bảo một mình Thầy, cái đó là cái ích kỷ của Thầy chứ không phải là cái thực hiện tốt đâu, còn cái Thập Thiện là cái chúng ta đem lại nguồn hạnh phúc chung cho mọi người, mà cái đó cái dễ, đâu có phải là cái khó. Bởi vì chúng ta biết cái ác thì chúng ta đừng làm, chúng ta biết cái thiện thì chúng ta làm, thì cái điều đó là cái điều đem đến hạnh phúc cho mọi người, và cái tầm vóc của con người nào cũng có thực hiện được hết, không có người nào mà làm không được. Một trẻ con bây giờ 5-6 tuổi, 7-8 tuổi bảo nó đừng có giết mấy con kiến đi, những con vật đó nó biết đau lắm, con đừng có giết nó. Những đứa trẻ nó nghe vậy nó thấy vậy nó không bao giờ nó giết đâu. Cái chuyện đó con nít làm được mà, nó vẫn tu được mà, đâu có gì mà khó đâu. Đó là những cái điều kiện mà chúng ta dạy nó, từ đó nó không giết hại chúng sanh, nó không làm đau khổ chúng sanh, thì cái hành động đó nó sẽ đem lại cho nó sau này nó không có được cái quả, nó không có cái quả khổ đối với cái hành động của nó làm tốt, thì tự nó nó đã làm chứ mình đâu có làm cho nó được đâu. Nó không giết hại thì nó không khổ, mà nó giết hại thì nó phải chịu lấy cái thọ khổ đó.
Đó là những điều mà hôm nay nó thực tế và cụ thể như vậy thì con nít bây giờ 5 tuổi 10 tuổi nó vẫn tu tập được theo đạo Phật mà nó đem lại cái hạnh phúc cho nó sau này, đâu có gì mà khó đâu. Thập thiện Thầy nói không khó đâu, chứ không phải ngồi thiền hít thở như chúng ta bằng cách này hay cách khác thì con nít làm không được, hay hoặc là bảo ngưng hơi thở thế này thế khác thì nó làm không được chứ bảo nó đừng giết chúng sanh, đi coi chừng đừng đạp kiến đồ đó thì có thể nó làm được, mà nó làm được, tâm nó chừng đó nó biết thương tất cả chúng sanh thì nó phải thương tất cả mọi người khác. Từ đó chúng ta tập luyện nó, mà những hành động hằng ngày làm như vậy thì nó huân lại những điều đó thì cái đời nó không có còn khổ nữa, chính cái đó là cái tốt.

 ___
Nguồn: Băng số 16 - Giáo án đường lối tu tập đạo Phật - Trưởng lão Thích Thông Lạc
Link pháp âm: http://hoctapdaoduc.blogspot.com/2013/12/phap-thoai-mp3-cua-uc-truong-lao-thich.html

TU TẬP ĐỊNH CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY

Sau khi tu tập TỨ CHÁNH CẦN xong các thầy nên tiếp tục tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC định. Ở lộ trình này các cư sỹ đang tu phải tu theo từng hành động việc làm của mình, hằng ngày làm bất cứ việc gì quý vị chú ý việc ấy, không được sao nhãng hoặc nghĩ đến chuyện khác, phải luôn luôn chú ý hành động làm, tu trong tất cả việc làm. Đó là luôn luôn người cư sỹ hiện bây giờ đang thực tập để cho mình bước qua một giai đoạn mới, cái lộ trình mới, lộ trình của người tu sỹ thì mình luôn luôn tu tập trong các việc làm của mình để tập cho có sức tỉnh thức ở trong đó, cho có một cái CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC ở trong đó. Điều này rất khó nhưng Thầy dạy quý vị tu hành cũng không khó đâu. Nghĩa là bây giờ bảo mình cứ tu tập theo hành động của mình, chú ý theo hành động của mình, tu sao mà chút có vọng tưởng, chút có vọng tưởng à. Trời đất ơi làm sao mà tỉnh thức được. Cho nên không có cách thức tu, cho nên từ lâu tới giờ có nhiều người dạy tu trong mọi công việc, nhưng kết quả cho người ta tu mà được kéo dài từ ngày này tới ngày khác không bị vọng tưởng, không có vô ký trong đó thì ít có ai mà làm được hết. Còn đến đây Thầy dạy cho quý thầy sẽ làm được cái điều đó, mà có thể giúp cho quý thầy tỉnh thức suốt ngày này sang đến ngày khác, trong mọi công việc mà không cần phải có sự tập trung quá cao độ, quá tập trung trong các hành động.
Quý vị nên lưu ý tu trong hành động có 2 điều cần tránh. Ờ bây giờ mình phải biết tu trong hành động có 2 điều cần phải tránh:
  • Một là tránh suy tư chuyện khác, nghĩa là trong hành động đó mình tránh suy tư vọng tưởng. Đừng để  vọng tưởng xen vào trong công việc đang làm. Nghĩa là vừa làm việc mà vừa nghĩ chuyện khác, tức là thiếu sự tỉnh thức trong hành động.
  • Hai là tránh vô ký. Đó hành động mình vừa làm mà vừa nghĩ chuyện này chuyện kia đó là thiếu tỉnh thức rồi, thì phải lưu ý cái phần nhứt. Cái phần 2 là tránh vô ký, tức là đang làm mà không nhớ cử chỉ đang làm. Lúc bấy giờ đang rơi vào trạng thái không nghĩ tưởng, đó là thiếu tỉnh thức, thiếu tỉnh giác trong việc làm.

Tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC phải biết dùng 2 pháp. Nghĩa là trước Thầy nêu lên 2 cái lỗi ở trong sự tu tập đó: cái thứ nhất là vọng tưởng ở trong hành động, cái thứ 2 là vô ký ở trong hành động. Thì 2 cái đó phải diệt trừ, phải tiêu diệt nó, không được để trong sự tu tập. Chứ không phải tôi tu tập như vậy tôi giữ tỉnh thức được 5,3 phút rồi kế đến nó có vọng tưởng, rồi tôi tu 5,3 phút nữa kế đến có vọng tưởng. Hàng ngày tôi tu trong công việc mà nó cũng có vọng tưởng xen ra, thì người đó tu dậm chân tại chỗ, tu ngàn đời không được. Tức là chúng ta phải biết tu thế nào để làm chủ tuần tự thời gian chúng ta tăng dần tăng dần lên, chứ không phải ngày nào cũng tu trong hành động, cũng làm trong hành động, rồi tu có vọng tưởng ra vô ra vô hoài. Cũng tu vậy mà tu Chánh niệm tỉnh thức kiểu đó là tu dậm chân.
Còn bắt đầu bây giờ chúng ta cho một thời gian nhất định là chúng ta tu 30 phút ở trong hành động làm hoặc là quét sân hoặc là gì đó, đúng giờ chúng ta nghỉ, chúng ta xả, làm theo suy nghĩ gì của nó kệ nó, nhưng mà đúng giờ chúng ta tu. Chúng ta tu chừng năm phút hay mười phút mà chúng ta đạt kết quả chất lượng của tỉnh thức ở trong 5 phút hoặc 3 phút thôi rồi hoàn toàn xả nghỉ. Chứ sức của chúng ta không thể suốt ngày mà công việc mà chúng ta giữ nó được. Cho nên phải hiểu được sức của mình. Nhiều khi nói tu trong hành động, điên khùng mà tu suốt ngày, lúc nào cũng có vọng tưởng hết mà nói là tỉnh thức là tỉnh thức gì. Chúng ta tỉnh thức được 5 phút, 3 phút là may lắm rồi, từng đó chúng ta tập dần mà tăng dần lên rồi chúng ta có chất lượng cao và chừng đó chúng ta sẽ xiết tất cả thời gian tỉnh thức trong mọi hành động.
Bởi vì tu phải biết chứ, còn tu mà không biết, cứ tu điên tu khùng, thì tu ngàn đời. Cũng là nói tu trong công việc làm, ai nói cũng hay hết, cuối cùng thì chẳng có tỉnh thức gì hết. Bởi vì luôn luôn có xen kẽ vọng tưởng ra vô làm sao tỉnh thức được.
 Đó thì hôm nay thầy dạy để quý thầy biết cách mà tu tập pháp tỉnh thức. Cũng như nghe thầy nói tu pháp Chánh niệm tỉnh thức, thôi đi kinh hành lung tung lung tung, suốt ngày thấy đi chăm chăm, thôi thì cái kiểu này là tu ngu. Tu ngu! Tu như vậy là không bao giờ có tỉnh thức. Cho nên cuối cùng Thầy nhìn thấy quý thầy càng ngày là càng sai, là nó không có tập trung được cái độc cư, mà nó lại xuyên qua những cái khác, cho nên Thầy nhận ra rất rõ cái điều mà quý thầy…
Bây giờ tiếp tục bài học vừa rồi là tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC. Vậy thì phải tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC như thế nào? Như Thầy đã dạy ở trong cái vừa rồi đó… ở cái sức của mình, sức của mình ở cái mức thời gian nào thì mình nên tập luyện thời gian đó, chớ không phải lúc nào ở trong mọi hành động, mọi công việc mà mình tập tỉnh thức được liền. Mà ngay trong thời gian đầu tiên mới tu thì mình chọn thời gian ngắn nhất với sức của mình, mình tập sao cho có chất lượng cao, trong lúc đó mình giữ gìn mọi hành động của mình, mà sự tập trung của mình ở trong mọi hành động đó thì sức tỉnh thức nó mới có.
Muốn như vậy thì chúng ta phải nương vào 2 pháp: là pháp tùy và pháp hướng. Tùy pháp là nương theo hành động, bởi vì cái hành động của chúng ta gọi là pháp. Hàng ngày cái đối tượng hành động của chúng ta đó là pháp hành, cho nên chúng ta lấy hoạt động đi đứng hàng ngày hoặc công việc. Thì đó là pháp tùy theo hành động đó. Cho nên cái tâm chú ý vào hành động đó gọi là tùy pháp.
Còn hướng pháp là chúng ta nhắc nó, cho nên chúng ta tu tập thế nào mà nó tự nhiên, chớ không phải là tu tập theo cái kiểu mà thiếu tự nhiên. Ví dụ là tùy pháp: chúng ta làm công việc đó nó nhanh nhẹn thì chúng ta tùy theo sự nhanh nhẹn đó mà tập luyện, hoặc chúng ta làm chậm chạp thì chúng ta cũng tùy theo sự chậm chạp mà tập luyện cho nó tự nhiên. Chứ còn bây giờ chúng ta phải chú ý hành động thân của mình thì bắt đầu mình phải làm chậm cho thật chậm mới chú ý được hoặc làm cho nhanh mới chú ý được thì cái đó là mình mất tự nhiên, mình làm sai pháp hành của mình đi. Cái thân hành có người thì làm nhanh, có người thì làm chậm. Như bây giờ có người thì đi nhanh, có người thì đi chậm. Nhưng mà cái người đi chậm thì tùy theo pháp hành đi chậm của mình, mà mình tập tỉnh thức ở đó. Mà cái người đi nhanh thì cũng tùy theo cái đi nhanh mà mình tu CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC ở chỗ nhanh. Chớ không phải là bắt buộc mình, mình đi nhanh mà tu tập mình phải đi cho chậm trở lại, mà đi chậm như vậy thì nó không thể là đúng cách tự nhiên của nó. Cho nên chúng ta tu, nhiều khi chúng ta không biết chúng ta tu, có người thì nhanh nhẹn thanh thoát mà tu riết rồi thì đi chậm như con rùa, thấy coi cũng không được. Đó là những cái sai.
Rồi có nhiều người lại thấy mình đi chậm quá như vậy là sức tập trung của mình tu tập như vậy thấy nó quá lâu, cho nên lại là chạy nhảy nhanh nhẹn để là nương theo cái chỗ nhanh nhẹn đó để mà tu tập, thì nó cũng trật. Tùy theo cái pháp hành của thân chúng ta, nhanh thì chúng ta tu nhanh, chậm thì chúng ta tu chậm, chớ không phải bắt buộc nó vào khuôn khổ nào chậm nhanh theo cái ý của mình được. Bởi vì đây là cái pháp tự nó nó có cái pháp của nó cho nên mình chỉ hướng theo mà thôi, nương theo, tùy theo cái pháp mà tu tập.
Đó là tùy pháp theo hành động công việc sống hằng ngày mà tu tập sức tỉnh thức. Muốn đạt sức tỉnh thức này người tu sỹ phải dùng pháp hướng tâm NHƯ LÝ TÁC Ý. Bây giờ mình kèm theo pháp hướng tâm, mình nhắc để cái tâm của mình luôn luôn nhớ được cái hành động việc làm của mình, như mình nhắc: tôi đang làm việc gì thì tôi nhắc tôi đang làm việc đó. Nghĩa là mình làm việc gì thì mình nhắc theo nó. Ví dụ như bây giờ mình đang quét nhà, thì tôi chú ý hành động đang quét nhà và hướng tâm nhắc tôi đang quét nhà. Bây giờ mình dùng câu pháp hướng của mình: tôi đang quét nhà. Bây giờ mình đang quét nhà nên nhắc tôi đang quét nhà. Như vậy mình sẽ nhắc cái tâm nhớ hành động mình đang quét. Như đang nấu cơm thì mình lại nhắc tôi đang nấu cơm.
Đó là những cái mình hướng theo để giúp cho ý thức của mình tỉnh thức trong hành động của nó, mà nó không bị thất niệm, nó ở trong chánh niệm của nó. Cho nên chánh niệm của nó là cái hành động. Vì chúng ta đặt cái hành động để làm cho sức tỉnh giác của chúng ta có, cho nên lúc bấy giờ cái chánh niệm không phải là cái niệm nào thông suốt cái nọ cái kia gọi là chánh niệm mà chính hành động đó là chánh niệm của chúng ta, đã đặt ở trước mắt của chúng ta, trước ý của chúng ta. Cho nên cái đó gọi là chánh niệm. Mà nó chánh niệm luôn luôn lúc nào nó cũng biết hành động đó thì nó là tỉnh giác hay là tỉnh thức.
Hiểu như vậy thì chúng ta biết cái niệm của chúng ta là cái niệm gì, cái niệm hành động, cái niệm đang làm cái gì đó, đang làm công việc gì đó. Đó là cái niệm. Mà cái niệm đang hiện tiền trước mặt mình đó gọi là chánh niệm, chớ không phải là mình đặt cái niệm khác vào chỗ đó được, hay là mình đặt hơi thở vào chỗ đó được. Chánh niệm ở trên hành động thì phải là cái hành động chớ không phải cái hơi thở.
Còn nếu mà chúng ta vừa đặt cái đi kinh hành vừa biết chân đi mà vừa biết hơi thở thì như vậy là chúng ta đã đặt 2 cái niệm 1 lượt, thì như vậy là chúng ta sai. Đó không phải là chánh niệm, mà nó là niệm đôi ở trong đó thì nó trật. Cho nên chúng ta chỉ có biết mình đi kinh hành mà thôi, thì như vậy là mình đặt chánh niệm, thì lúc bấy giờ nó tỉnh giác ở trong chánh niệm đó, cho nên cái định gọi là Chánh niệm tỉnh giác định. Hiểu như vậy thì chúng ta không có đi hàng hai và không có đặt sai cái niệm. Nếu mà trong khi đi kinh hành có niệm gì nghĩ ở trong đầu thì cái đó là sai, tại vì là cái niệm khác chứ không phải niệm hành động của chúng ta, cho nên nó đâu có chánh niệm, bởi vì cái niệm đó không phải là niệm mình đặt, nên nó là tà niệm.
Đi trên hè phố thì nhắc: tôi biết tôi đang đi trên hè phố. Đó thì mình đang đi trên hè phố thì mình nhắc: tôi biết tôi đang đi trên hè phố. Đó là pháp hướng của mình để cho cái chánh niệm của mình đang đi trên hè phố.
Đó là những cái mà chúng ta cần phải hướng theo để tâm ý chúng ta lúc nào nó cũng tỉnh thức trên hành động mà chúng ta đang đi. Mà hành động đó là cái chánh niệm. Chứ nghe chánh niệm mà chúng ta nói: ờ thì bây giờ nói về cái niệm chơn chánh của chúng ta thì nói: đời là khổ là niệm chơn chánh, thì vậy là nó sai đi, nó thuộc về cái loại khác, nó thuộc về cái loại định khác chứ không phải là cái định chánh niệm tỉnh thức ở đây. Mình nghe chánh niệm rồi mình đem cái chánh niệm nào đó vô chỗ này thì nó là sai. Mình phải hiểu được cái chánh niệm trong khi đi kinh hành cái niệm nó như thế nào, mà thất niệm, tức là mất cái niệm đó đi, Đức Phật gọi là thất niệm. Thí dụ mình đang đi kinh hành mà mình quên mình đang đi kinh hành là bị thất niệm.
Thầy giải thích như vậy để quý thầy thấy rõ chỗ thất niệm, để chúng ta biết chỗ tu chúng ta đúng hay là sai. Cũng như một người đang tu định vô lậu mà đang quán cái thân bất tịnh, bỗng dưng nhớ chuyện gì khác đi, không có quán thân bất tịnh mà lại quán câu kinh: ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm, suy nghĩ về câu đó, thì như vậy là thất niệm. Đang có cái niệm đó nó nói về tâm của mình như thế này như thế khác ở trong kinh điển mà trong khi đó mình đang quán bất tịnh của cái thân này. Mà cái thân này đang quán bất tịnh là cái chánh niệm, mà quán một câu kinh nào đó thì nó là thất niệm. Nó là cái tà niệm chứ không phải chánh niệm của người đang tu pháp môn vô lậu. Phải hiểu mặc dù niệm đó không phải là niệm thế gian, nhưng nó vẫn là niệm không đúng vị trí nó đứng. Mà mình đặt niệm đó ngay chỗ mình đang tu pháp, nó không đúng cái pháp, do đó niệm đó thuộc về tà niệm chớ không phải là chánh niệm. Mà cái niệm như vậy xen vào thì đương nhiên xem người tu hành đó bị thất niệm.
Đang xúc miệng thì nhắc: tôi biết tôi đang xúc miệng. Nghĩa là mình đang xúc miệng rửa mặt đó thì mình nhắc: tôi xúc miệng tôi biết tôi xúc miệng. Đang ăn cơm thì nhắc: tôi biết tôi đang ăn cơm. Đang nhai thực phẩm: tôi biết tôi đang nhai thực phẩm. Như vậy là lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức ở trong cái chánh niệm của cái hành động đang nhai. Đang mặc áo thì tôi cũng nhắc: tôi biết tôi đang mặc áo. Mình nhắc như vậy tức là pháp hướng của mình kèm theo để cho mình biết hành động của mình đang xỏ tay vô cái tay áo, rồi đang gài nút. Thì cái đó là những cái nhắc chúng ta đang, trong hiện tại đó, chúng ta đang làm cái việc đó. Cho nên ý chúng ta luôn luôn bị cái pháp hướng mà nó không chạy ra khỏi cái chánh niệm của nó. Cho nên luôn luôn lúc nào nó cũng ở trong cái chánh niệm của nó.
Như vậy hôm nay quý thầy đã biết chánh niệm của nó là cái niệm gì, khi chúng ta đã đặt nó trước mặt của chúng ta. Cho nên Phật bảo, ví dụ như mình đang ngồi tu cái định nào thì mình cứ đặt cái niệm trước mặt. Thì bây giờ mình đặt cái niệm chánh niệm tỉnh thức, cái niệm hành động, thì tức là trong hành động thì mình phải đặt nó trước mặt của mình. Luôn luôn phải biết giữ nó, đừng cho thất niệm. Thì như vậy là chúng ta mới có sức tỉnh thức, tỉnh giác cao. Còn nếu bị thất niệm thì nó không có sức tỉnh giác cao đâu.
Đó là người tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC định luôn luôn dùng pháp tùy và pháp hướng để giúp cho tâm có thời gian kéo dài sức tỉnh giác ra. Mình cứ nhắc vậy thì nó kéo dài thời gian tỉnh giác. Nhưng như vừa rồi Thầy cũng nhắc quý thầy là chúng ta phải khéo, phải khéo như thế nào? Vì cái sức của chúng ta nó không thể giờ này đến giờ khác mà nó tỉnh thức nổi đâu. Cho nên chúng ta tập chừng 5 phút chúng ta nghỉ, nghỉ xả 30 phút hoặc là 15 phút. Bắt đầu chúng ta tu lại 5 phút.
Chúng ta tu lại cái sức tỉnh rất cao, cái chánh niệm của chúng ta nó hoàn toàn an trú trong hành động, chánh niệm nó không có thất niệm, nó không có mất. Còn chúng ta tu nhiều quá nó lờ mờ, mặc dù chúng ta có cái chánh niệm, tức là niệm hành động của chúng ta nó không mất, nhưng nó không rõ, do đó cái sức tỉnh nó không cao. Vì vậy mà chúng ta tu mất thì giờ rất lớn. Lưu ý phần này thì các thầy tu ít nhưng mà đạt cái chất lượng cao. Rồi từ cái sức tỉnh của chúng ta ngày càng cao thì chúng ta lại tăng dần lên, thì chúng ta sẽ thấy rất là tỉnh. Thà là mình tu ít mà lúc bấy giờ mình tập trung vào cái gì đó, lúc đó cái sức tỉnh mình rất cao, và cái sức tỉnh rất cao thì nó mới có cái tri kiến giải thoát nó mới phóng ra, nó mới tu định vô lậu, nó mới quét sạch những cái lậu hoặc. Còn cái sức tỉnh mình nó thấp quá, mình ngồi lại mình dùng cái niệm vô lậu để mình quán xét thì mình ngồi hoài mà nó không phóng ra được, đó là cái sức tỉnh mình không có nên cái tri kiến giải thoát không phóng ra được. Khi mình chưa có đủ sức tỉnh thì mình dùng cái tri kiến, tri kiến tức là cái sự hiểu biết vay mượn của người khác để rồi mình suy xét, quán xét từ đầu đến chân của mình bằng cách này bằng cách khác. Còn khi mà chúng ta đã có sức tỉnh thức rồi thì chúng ta không cần vay mượn của ai hết mà chúng ta chỉ cần đặt cái niệm trước mặt: chẳng hạn niệm thân bất tịnh hay niệm thân vô thường vô ngã. Chúng ta đặt cái niệm trước mặt, chúng ta ngồi im lặng một chút xíu, tự ở trong tâm chúng ta phóng ra tri kiến giải thoát, từ đó nó quán xét, thấy rất rõ tất cả những cái bất tịnh như thế nào, tự nó nó quán sát không vay mượn của ai hết, mà nó thông suốt như vậy đó gọi là tri kiến giải thoát.
Nhưng vì sức tỉnh thức của chúng ta không có, cho nên nó ngồi lại ỳ đó mà nó không phóng ra được, bởi vì tỉnh thức không cao. Vì vậy khi chúng ta tu tập chừng 5 phút hay 10 phút mà cái sức cao rồi thì tự chúng ta ngồi im lặng là nó phóng ra liền. Bởi vì người ta nói Định thì có Tuệ. Mà mình chưa có đủ cái Định, tức là cái tỉnh thức, cái sức tỉnh thức tức là cái sức định chứ đâu phải là cái gì, nó là cái sức nhiếp tâm của chúng ta, cho nên chúng ta chưa có nó thì cái Tuệ nó không phóng ra được, mà nó không phóng ra được thì tri kiến giải thoát không có, mà tri kiến giải thoát không có thì tâm ta còn biết bao nhiêu cái ràng buộc dính mắc. Cho nên chúng ta muốn giải quyết sự ràng buộc dính mắc của lậu hoặc này thì chúng ta phải dùng cái tri kiến, tức là cái vay mượn, cái hiểu biết của kinh điển, của quý thầy dạy bảo để chúng ta hiểu được cái bất tịnh như thế nào, cái vô thường như thế nào để chúng ta quán xét theo sự hiểu biết của vay mượn, chứ không thể có tri kiến giải thoát được.
Đó thì sự tu tập nó phải rõ như vậy, chứ nếu mà không biết thì chúng ta ngồi ỳ đó hoài mà tri kiến giải thoát nó không phóng ra, rồi cứ nương theo hơi thở, tưởng đó là mình thiền định, chứ thực ra mình bị thất niệm. Mình thất niệm là vì cái định này nó không thể nào ở trong hơi thở được. Rồi mình tưởng là ở trong hơi thở nó không có vọng tưởng, đó là mình không có thất niệm; nhưng thật sự là mình tu lầm lạc, rồi mình  tu sang qua một pháp khác, mà mình không có chủ động điều khiển được, tức là thiếu sự làm chủ.
Nhưng quý vị chú ý, ở đây hướng tâm chứ không phải niệm câu pháp hướng. Cái phần này chúng ta cũng phải rõ là chúng ta hướng tâm, chứ không phải là niệm, để không rồi chúng ta cứ liên miên mà niệm thì nó cũng lại trật. Ở đây hướng tâm chứ không phải niệm câu pháp hướng. Vì hướng tâm phải có cách khoảng thời gian câu hướng này với câu hướng kia, nghĩa là chúng ta phải có khoảng thời gian.
Ví dụ bây giờ chúng ta hướng này: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân.
Thì không thể nào chúng ta lặp lại một lần thứ 2 kế tiếp nữa: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân. Rồi nói: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân… Mình lặp lia lịa vậy gọi là niệm. Còn mình nhắc một câu: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân, rồi chúng ta cứ tự nhiên mà chúng ta quét, để cho cái sức ý thức của chúng ta tập trung nơi hành động chánh niệm của nó đang quét. Thì một khoảng cách độ chừng 3 phút, 5 phút chúng ta lại nhắc một lần nữa. Thì cứ có khoảng cách để tâm nó lặng theo hành động tập trung mà không cần tác ý ra nữa, do đó gọi là pháp hướng. Còn nếu mà cứ liên tục niệm thì đó là niệm pháp hướng chứ không phải là hướng tâm.
Cho nên chúng ta ở đây cũng phải hiểu được cái điều này. Người mới tu họ không biết thì cứ tu liên tục lúc nào cũng nhắc. Thí dụ đi kinh hành thì họ cứ nhắc: tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành, rồi lúc nữa họ cũng nhắc liên tục nữa, thì cái đó là cái sai, cho nên khi mình nhắc rồi thì phải tuần tự để cho có thời gian lắng tâm xuống trong cái Chánh niệm, trong cái hành động đi của chúng ta. Thì khi mà lắng tâm trong cái khoảng thời gian đó, cái sức tỉnh nó tăng lên, đồng thời thời gian mà lắng tâm đó nó sẽ bị vơi đi, tức là sức tập trung của chúng ta, dần dần ý thức nó chưa quen cho nên nó không có tập trung chặt vào đó được, cho nên nó lơi lỏng. Nó lơi lỏng thì chúng ta lại dùng 1 cái pháp, câu hướng nữa, lại nhắc nó một lần nữa: tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Thì từ đó nó lại tập trung vào hành động đi nữa, thì nó lại tỉnh thức cao hơn nữa, do đó chúng ta cứ tiếp tục như vậy thì cái sức tỉnh nó lại càng cao.
Nhưng mà rồi nó có trường hợp, là tại vì quý thầy đã tu tập cái hơi thở nhiều quá thay vì chúng ta chưa nên tập hơi thở trong cái lúc này, mà phải tu các định khác. Bây giờ nó lại quen hơi thở, vừa đi mà lại vừa biết hơi thở. Cho nên Phật dạy tất cả các pháp chúng ta đều có thể nương hơi thở mà tập được, do đó chúng ta nhắc câu ám thị, nó vừa là có hơi thở vừa có chánh niệm tỉnh thức của hành động chúng ta đi nữa. Thì: hơi thở vô tôi biết tôi thở vô, hơi thở ra tôi biết hơi thở ra. Hơi thở vô tôi biết tôi đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đi kinh hành.
Đó là những câu nhắc để lấy dùng hơi thở làm cho tập trung với hành động đi, chớ không phải tập trung hơi thở. Nhưng tại vì cái tâm của mình nó đã quen với hơi thở nên vừa đi mà vừa biết hơi thở, cho nên mình nhắc: hơi thở vô tôi biết tôi đang đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đang đi kinh hành. Mình dùng cái hơi thở mình tập trung xuống hành động liền, nó làm cho mình tỉnh thức ngay liền và đồng thời bỏ hơi thở được. Đó là những cách có thể nương hơi thở mà tu vào cái Chánh niệm tỉnh thức để cho chúng ta càng tỉnh thức hơn.
Đó, đó là những cách thức tu tập để chúng ta tu chánh niệm tỉnh thức cho nó đạt được cái mức tỉnh thức cao. Vì hướng tâm phải có cái khoảng thời gian, ít ra câu hướng này với câu hướng kia, người mới tu 30 phút mới hướng một lần, còn người tu lâu có sức tỉnh thức nhiều, một phút hoặc 2 phút hướng một lần. Nghĩa là người mới tu mà tu 30 phút thì họ phải tu trong 1 phút họ phải hướng 1 lần hoặc 2 phút họ hướng 1 lần. Còn người tu lâu thì khoảng 5 phút hay 10 phút họ mới hướng 1 lần. Nếu mà thấy sức tỉnh thức của mình mà nó luôn luôn tập trung ở hành động đi của mình thì lúc bấy giờ lâu lâu mình mới hướng, mà thấy nó lờ mờ, nó bị hàng hai (nó nương hơi thở hoặc nó bị âm thanh tác động, nó đi hàng hai trong đó) thì ngay đó mình phải hướng liền cho nó gom lại, chớ không khéo nó lờ mờ. Nó đi hàng hai là nó lờ mờ rồi đó, nó không tập trung được rồi, nó không tỉnh thức đâu.

Cho nên khi đó người tu thì người ta thiện xảo lắm, người ta phải khéo léo ở trong sự tu tập. Người ta biết cái tâm của mình lúc ấy nó lờ mờ rồi, người ta biết lúc bấy giờ nó rất tỉnh rồi. Mà lúc lờ mờ người ta biết, cho nên người ta rất khéo léo dùng pháp hướng là cái chỗ lờ mờ, chỗ tỉnh thì người ta không dùng pháp hướng nữa để cho nó tập trung ở trong sức tỉnh. Mà nó lờ mờ thì ngay đó chúng ta phải dùng pháp hướng để phá liền để cho ý thức của chúng ta nó gom lại cho nó mạnh. Biết rõ như vậy thì chúng ta tu rất là có kết quả. Ở đây không được nhắc liền miệng, vì nhắc liền miệng là niệm câu trạch pháp hướng, như vậy sẽ tu sai, sau này sẽ rơi vào định tưởng, lệch đường tu giải thoát của đạo Phật. Nghĩa là rơi vào những định tưởng, niệm riết rồi nó sẽ rơi vào những định tưởng, nó làm cho chúng ta có sự an lạc trong khi niệm mà nó không có đúng cái pháp hướng. 
___
Nguồn: Băng số 15 - Giáo án đường lối tu tập đạo Phật - Trưởng lão Thích Thông Lạc
Link pháp âm: http://hoctapdaoduc.blogspot.com/2013/12/phap-thoai-mp3-cua-uc-truong-lao-thich.html

Sunday, January 26, 2014

Nhiệt Tâm

Hỏi: Kính bạch Thầy! Nếu không có nghị lực, dứt khoát, từ bỏ thì tu Ðịnh Vô Lậu và tu tập Pháp Hướng Tâm, theo sự nhận xét của con trong sự tu tập thì con thấy cũng không có hiệu quả, có phải vậy không thưa Thầy?
Ðáp: Con đường tu theo đạo Phật nếu không có quyết tâm dứt khoát từ bỏ, nhất là thiếu nghị lực thì không thể nào tu Ðịnh Vô Lậu và dùng pháp Hướng Tâm có hiệu quả được. Người ta biết thuốc lá, thuốc phiện và rượu gây bệnh tật, tai hại cho cơ thể, nhưng không quyết tâm dứt khoát từ bỏ thì vẫn phải chịu bệnh nghiện và con người luôn luôn ương gàn như một con thú vật, họ không biết đạo đức là gì.
Nhiệt tâm là một điều quan trọng hết sức cho bước đường tu tập xả tâm, nếu không có nhiệt tâm thì nhất định không bao giờ có xả tâm được.
Ðịnh Vô Lậu là một danh từ nếu chúng ta chỉ dùng danh từ để quán xét và nói suông thì chẳng có nghĩa gì là vô lậu. Nói vô lậu tức là nói không còn đau khổ, nói không còn đau khổ tức là nói không còn chướng ngại pháp trong tâm, nói chướng ngại pháp trong tâm tức là nói ác pháp.
Do đó, đức Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” là để thoát khổ, nếu người không có nhiệt tâm ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp thì khó mà giải thoát được. Bởi, nhiệt tâm là một việc làm tích cực hết sức của một người quyết chí đi tìm đường giải thoát, nếu người quyết chí đi tìm đường giải thoát mà không có nhiệt tâm thì sự tu hành cũng chỉ hoài công vô ích mà thôi.
Muốn bỏ một điều ác nào, thì chúng ta phải thông suốt điều ác ấy. Vậy, phải thông suốt như thế nào?
- Thứ nhất, là phải thông suốt lý nhân quả thiện và ác.
- Thứ hai, là phải thông suốt lý duyên hợp.
- Thứ ba, là phải thông suốt lý các pháp vô thường, khổ, vô ngã.
- Thứ tư, phải thông suốt Bát Chánh Ðạo, tức là tám lớp tu tập để được giải thoát như:
Lớp 1: Chánh Kiến.
Lớp 2: Chánh Tư Duy.
Lớp 3: Chánh Ngữ.
Lớp 4: Chánh Nghiệp.
Lớp 5: Chánh Mạng.
Lớp 6: Chánh Tinh Tấn.
Lớp 7: Chánh Niệm.
Lớp 8: Chánh Ðịnh.
- Thứ năm, phải thông suốt ba lậu như: dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu.
- Thứ sáu, phải thông suốt Ngũ triền cái và Thất kiết sử.
- Thứ bảy, phải thông suốt Năm hạ phần kiết sử và Năm thượng phần kiết sử.
- Thứ tám, phải thông suốt Thập thiện và Thập ác.
- Thứ chín, phải thông suốt bốn loại định: Ðịnh Sáng Suốt, Ðịnh Niệm Hơi Thở, Ðịnh Vô Lậu và Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác.
- Thứ mười, phải thông suốt Tứ Thánh Ðịnh.
- Thứ mười một, phải thông suốt pháp Như lý tác ý và pháp Tác ý.
- Thứ mười hai, phải thông suốt phóng tâm và phóng dật.
Trong khi đã thông suốt 12 pháp môn này, mà thiếu nhiệt tâm dứt bỏ tu hành thì trở thành một vị giảng sư, vị giảng sư là người nói được, chứ không làm được, người nói được mà chưa làm được là người nói láo. Người nói láo bằng thuyết giảng là người lừa đảo người khác bằng kinh sách.
Vốn đạo Phật không phải là một tôn giáo nói láo, nên khi đã thông suốt các pháp thì phải nỗ lực xả bỏ, ly tham đoạn diệt ác pháp cho chính mình, để được ra khỏi cuộc đời đầy khổ đau, chứ không phải thông suốt lý đạo để đem ra dạy đời bằng những lý thuyết suông trong khi mình tu tập chẳng ra gì mà lại dạy người tu thì hóa ra lừa đảo người. Ðừng dùng những ngôn từ trong kinh phát triển để che mắt thiên hạ “Y pháp bất y nhân”, có nghĩa là y nơi pháp mà tu hành, còn đừng y vào các Thầy, vì các Thầy tuy dạy như vậy mà chưa có tu hành được như trong kinh đã dạy.
Ðối với con đường tu hành theo đạo Phật, nếu không có nhiệt tâm nồng cháy quyết dứt bỏ những chướng ngại pháp trong tâm, như những lời dạy của đức Phật trong thời khóa tu tập lúc đức Phật còn tại thế thì không bao giờ làm chủ được sanh, già, bệnh, chết, nếu không có nhiệt tâm nồng cháy sửa đổi những lỗi lầm của mình trong những thói hư tật xấu thì chẳng bao giờ trở thành những con người tốt trong xã hội được. Những con người có đạo đức, nếu không có nhiệt tâm nồng cháy ly dục ly ác pháp, sửa đổi tánh hư tật xấu thì không bao giờ có ly dục ly ác pháp được. Không ly dục ly ác pháp, thì không bao giờ nhập được Thiền định, nếu không nhập được Thiền định thì không bao giờ thực hiện được Tam Minh, nếu không thực hiện được Tam Minh thì không bao giờ chấm dứt tái sanh luân hồi.
Xem thế, chúng ta mới thấy nhiệt tâm là một điều quan trọng hết sức trong việc tu hành theo đạo Phật, vì có nhiệt tâm mới có giải thoát.
Chúng ta biết, có nhiệt tâm mới có nghị lực để chiến đấu với nội tâm của mình, không nhiệt tâm thì không nghị lực, người không có nghị lực làm việc gì, người ấy đều gặp thất bại, huống là công việc tu hành thì lại còn thất bại nặng nề hơn.
Cho nên, người tu Ðịnh Vô Lậu cũng như sử dụng pháp Hướng Tâm mà không có nhiệt tâm dứt khoát từ bỏ, thì sự tu tập chỉ có hoài công vô ích và uổng phí một đời tu hành, chẳng bao giờ có giải thoát đối với những người này.
Theo sự nhận xét của con, trong sự tu tập của chính mình, thì con đã rút ra được những kinh nghiệm bản thân, nếu không có nhiệt tâm xả bỏ thì sự tu tập cũng chỉ hoài công vô ích và uổng phí một đời tu hành chẳng bao giờ có giải thoát. Với những ai tu chơi thì chẳng bao giờ có nhiệt tâm, không có nhiệt tâm thì đừng nên tu theo đạo Phật đã chẳng ích lợi cho mình mà còn hại đạo Phật thêm, khiến cho người đời khinh chê và phỉ báng vì phạm giới cấm của đức Phật.
Theo sự nhận xét của con trong sự tu tập của chính mình, thì con đã hiểu biết được những kinh nghiệm bản thân, “nếu không có nhiệt tâm xả bỏ thì sự tu tập không có hiệu quả”.
Ðúng vậy! Ðúng vậy! Lời nói này là cả một kinh nghiệm bản thân. Nếu trên đường tu tập mà ai không có nhiệt tâm xả bỏ xa lìa ác pháp và lòng ham muốn của mình, thì kết quả chẳng ra gì như trên đã dạy.
Nếu một người tu hành theo đạo Phật mà sống không đúng Phạm hạnh của đạo Phật, thì người ấy không bao giờ có nhiệt tâm với sự tu tập của mình. Người có nhiệt tâm, là người sống đúng giới luật Phạm hạnh.
Nếu tu tập mà không có kết quả, thì sự nhiệt tâm sẽ mất dần và cuối cùng, lòng tha thiết nhiệt tâm tu hành giải thoát không còn nữa. Bởi vậy, kẻ nào tu sai, nhiệt tâm sẽ bị mất, nhiệt tâm mất thì nghị lực cũng không còn, tu như vậy chỉ mang tiếng tu mà thôi.
Ðây là một vấn đề quan trọng trong sự tu hành, quý Thầy và quý Phật tử phải bảo vệ và giữ gìn nhiệt tâm của mình, đừng nên để nó mất, nó mất đi cuộc đời tu hành của quý vị sẽ trở thành đen tối và âm u.
Người tu hành theo đạo Phật nhiệt tâm là hàng đầu của người xuất gia, nó sẽ giúp cho quý vị tu tập đến nơi đến chốn, quý vị nên nhớ kỹ và khắc ghi mãi trong lòng hai chữ “NHIỆT TÂM”. Nhiệt tâm còn là sự tích cực còn, nhiệt tâm mất là tiêu cực đến.
________
(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích ĐVXP.1 TG.2013, tr.170-177)

Monday, January 20, 2014

TĨNH GIÁC và TỈNH THỨC

TÂM THƯ GỬI KIM QUANG NGÀY 5-1-2008

Kính gửi: Kim Quang


Để trả lời những câu hỏi của con:


1- CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC là lối hành văn của người Trung Hoa còn lối hành văn của người Việt Nam thì dùng đảo ngược lại TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM.


2- Theo pháp hành văn của người Việt Nam thì TĨNH GIÁC trước rồi sau mới CHÁNH NIỆM. Cho nên khi đọc CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC là biết người ta dùng theo Hán văn, còn khi đọc TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM thì người ta biết dùng theo Việt văn. Cụm từ này chỉ có một nghĩa chứ không có hai nghĩa.


3- Trong TĨNH GIÁC đã có nghĩa CẨN THẬN, cho nên dùng TĨNH GIÁC thì không dùng CẨN THẬN. Khi có dùng thêm CẨN THẬN là cho người chưa hiểu từ TĨNH GIÁC.


4- Dùng từ CẨN THẬN thì không đi đôi với CHÁNH NIỆM được, vì CẨN THẬN có TÀ có CHÁNH, nếu muốn dùng với từ CHÁNH NIỆM thì phải thêm từ “TRONG”. CẨN THẬN TRONG CHÁNH NIỆM.


5- Từ CẨN THẬN nó mang theo hai tính chất chánh và tà như trên đã nói: CẨN THẬN TRONG CHÁNH NIỆM hoặc CẨN THẬN TRONG TÀ NIỆM.


6- TĨNH GIÁC có sự thanh tịnh và bình tĩnh nên thường dùng TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM chứ không dùng TĨNH GIÁC TÀ NIỆM.


7- TĨNH GIÁC là một giới đức trong pháp môn QUÁN VÔ LẬU của Phật giáo nên nó có phương pháp tu tập, vì thế nó có sức gạn lọc tâm tư thanh tịnh không còn các ác pháp và trong khi tu tập nó còn có một sức bình tĩnh kỳ lạ khi đứng trước các ác pháp nó rất định tĩnh, nếu tu tập đúng đặc tướng.
8- Đức CẨN THẬN không có phương pháp tu tập, chỉ hằng ngày tập sống CẨN THẬN mà thành thói quen, nên nó không có phương pháp gạn lọc tâm tư trong sạch toàn thiện. Vì vậy, trong các pháp ác nó vẫn có sự cẩn thận, cẩn thận để tăng trưởng ác pháp. 


9- Trong bài “TÂM HỒN CAO THƯỢNG”:


 Đáp án thứ 2: Vì cô bé THIẾU ĐỨC CẨN THẬN Ý HÀNH, nhớ lại quên đem sách âm nhạc nên lo lắng, nhưng ở đây tác giả dùng chữ “hoảng hốt” không đúng, vì hoảng hốt là phải có đối tượng gây ra ấn tượng sợ hãi giao động tâm quá mạnh còn mới quên hay nhớ, đó là một trạng thái bình thường làm sao có sự hoảng hốt như vậy. Cho nên đáp án 2 cô bé THIẾU ĐỨC CẨN THẬN Ý HÀNH là đúng.


Đáp án 3: Cô bé THIẾU ĐỨC TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM Ý HÀNH là đúng, vì lúc bấy giờ cô bé không còn bình tĩnh quá sợ hãi.


10- TĨNH GIÁC và TỈNH THỨC khác nghĩa, khác hình dạng chỉ có đồng âm. Chữ TĨNH GIÁC dấu ngã (~), chữ TỈNH THỨC dấu hỏi (?).


Chữ “GIÁC” có nghĩa là “GIÁC NGỘ” mà GIÁC NGỘ có nghĩa là phân biệt biết rõ các pháp nào ác và các pháp nào thiện. Nên chữ “GIÁC” có nghĩa là “QUÁN XÉT” hay “SUY XÉT”.


Chữ “THỨC” có nghĩa là tỉnh táo biết rất rõ nhưng không phân biệt pháp nào thiện hay pháp nào ác. Thiện ác hai pháp như nhau, nên chữ  “THỨC” có nghĩa là “TẬP TRUNG”.


11- Pháp TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM trong kinh Phật dạy dùng sức “BÌNH TĨNH” quan sát phân biệt các pháp nào thiện để tăng trưởng và ngăn chặn, diệt trừ các pháp nào ác để “XẢ TÂM”, đó là để giúp tâm bất động trước các pháp ác; là để giúp tâm thanh thản, an lạc và vô sự; đó là để bảo vệ CHÂN LÝ nơi bất sinh bất diệt của loài người.


12- Pháp TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM trong kinh Phật dạy dùng sức “TỈNH TÁO” tập trung tâm vào một đối tượng duy nhất để thực hiện “NHIẾP TÂM” và “AN TRÚ TÂM” luyện nội lực “TỨ THẦN TÚC”.


13- Vì thế chúng ta phải hiểu: TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM là pháp môn dùng để XẢ TÂM. Còn TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM dùng để NHIẾP TÂM LUYỆN TẬP NỘI LỰC.


14- Trong TĨNH GIÁC không có TỈNH THỨC, vì có TỈNH THỨC thì TĨNH GIÁC mất cũng như trong TỈNH THỨC không có TĨNH GIÁC, vì có TĨNH GIÁC thì TỈNH THỨC mất. Cho nên hai pháp này không phải là một pháp mà hai pháp môn. Hai pháp môn này là hai giai đoạn tu tập của Phật giáo “GIỚI, ĐỊNH”. Vì thế, các con đừng hiểu lầm lạc. Hiểu lầm lạc là không biết đường tu tập.


15- Các con nên nhớ kỹ: Pháp môn TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM dùng để tu tập TỨ CHÁNH CẦN xả tâm phần thô; còn Pháp môn TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM dùng để tu tập TỨ NIỆM XỨ luyện nội lực thiền định để xả tâm phần vi tế.
16- Người tu tập mà hôn trầm, thùy miên còn nhiều, nếu muốn phá hôn trầm thuỳ miên thì không nên ngồi nhiều mà nên đi kinh hành theo pháp môn TĨNH GIÁC CHÁNH NIỆM xả tâm, chứ không được tu tập pháp môn TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM, vì tu tập TỈNH THỨC CHÁNH NIỆM dễ rơi vào trong trạng thái “KHÔNG”.


Chúc các con tu tập thành công tốt đẹp.


Kính ghi


Thầy của các con