Monday, August 31, 2020

Trả lời câu hỏi về vị nào tu xong?



Thỉnh thoảng mình vẫn nhận được những câu hỏi như: "Sư cô/ thầy A, B, C tu xong chưa?". Hoặc như chỗ thầy/sc A, B, C tu có đúng pháp không? Hay sau khi Thầy Thông Lạc nhập diệt thì ai là người hướng dẫn tu tập? v.v.. nhiều câu hỏi đại loại như vậy, cùng một chủ đề: vị ABC đã chứng đạo chưa?

Trả lời:

Thực sự mình KHÔNG CÓ RẢNH và KHÔNG CÓ NHU CẦU để đi xem các vị ấy đã tu xong chưa nên cũng không biết là các vị ấy tu xong chưa hay không.

Điều quan trọng với mình là làm sao để đoạn trừ những khổ đau của CHÍNH MÌNH, việc ai tu như thế nào là nhân quả của các vị ấy.

Mình vẫn đọc và học từ rất nhiều quý thầy, sư cô và cư sĩ ở tất cả các tông phái, không chỉ có đọc sách thầy Thông Lạc. Mình suy nghĩ là HỌC ĐƯỢC GÌ TỪ CÁC VỊ ẤY, đem lại lợi ích cho mình.

Mình luôn hướng tâm tri ân TAM BẢO, tôn kính Tam Bảo.

Có thời gian tìm hiểu Kinh Nikaya, mình cũng biết đức Phật có dạy như thế nào là người TU XONG như phần trả lời của thầy Thích Bảo Nguyên: Thế Nào Là Tu Xong?

Điều này, tự người đó biết mình đã tu xong chưa, chứ không phải để cho người khác đánh giá (đo lường xem vị nào đã tu xong chưa). "VỊ ẤY tuệ tri sanh đã tận ... " chứ không phải người khác biết. Người tu chứng tâm thanh tịnh tự họ biết, và không có KHOE KHOANG, không khoe thần thông biết quá khứ, vị lai, cho mình là hơn người, nay chê người này, mai chê người khác, khen mình chê người. Các ngài không bao giờ làm vậy.

Chính vì các ngài KHÔNG KHOE KHOANG, sống hòa hợp, trầm lặng trong tăng chúng nên không thể biết vị nào la chứng đạo quả A la hán chưa, nên vua Pasenadi nước Kosala mới hỏi Phật[1]:

"- Bạch Thế Tôn, có phải những Tôn giả ấy là những vị A-la-hán trên đời này, hay là những vị đang đi trên con đường hướng đến đạo quả A-la-hán?

- Thưa Ðại vương, khi Ðại vương còn là cư sĩ trong khi còn sống với gia đình, thọ hưởng dục lạc, bị vợ con trói buộc, quen dùng các loại chiên đàn ở xứ Kàsi, trang sức với vòng hoa, hương thơm, dầu sáp, thọ hưởng vàng và bạc thời Ðại vương thật KHÓ BIẾT được các vị ấy là bậc A-la-hán hay là bậc đang đi con đường hướng đến A-la-hán quả."

Và đức Phật xác định cho phải có CỘNG TRÚ + VẤN ĐẠO + TRÍ TUỆ + TRẢI QUA THỜI GIAN mới biết được xem một vị thực sự đã hoàn toàn thanh tịnh hay chưa.

Duyên chúng ta sinh hoạt, làm việc cùng, thưa hỏi giáo pháp và qua thời gian có những thử thách bởi những nhân quả khắc nghiệt (như tai nạn, ốm đau, người chê bai, chửi rủa, v.v.. ) thì sẽ biết một người nào đó (cũng như CHÍNH MÌNH) tâm đã giải thoát thực sự chưa.

Khi bạn hiểu về 10 kiết sử thì bạn nghe Pháp, cộng trú, thưa hỏi bạn sẽ hiểu được ai tu xong, cũng như chính mình tu đến đâu?


Vị thầy truyền thừa đạo Phật?

Trong đạo Phật không có truyền thừa, kế thừa như người đời nghĩ. Pháp Phật không phải là mật giáo, không phải là bí mật mà đã được đức Phật trình bày đầy đủ qua 45 năm thuyết Pháp của Ngài. Ai có duyên nghe, giác hiểu và thực hành đều từ từ giải thoát (khỏi khổ đau của CHÍNH MÌNH).

Đức Phật KHÔNG dạy mình nương tựa một vị thầy nào cụ thể, cũng như không dạy phải lấy ngôi chùa, tịnh xá, tu viện nào cụ thể để làm nơi nương tựa mà đức Phật dạy chúng ta quy y Tam Bảo.

Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy được nơi nương tựa là CHÍNH MÌNH, tự mình lấy Chánh Pháp làm nơi nương tựa.

“Vậy nên, này Ananda, hãy TỰ MÌNH là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình NƯƠNG TỰA CHÍNH MÌNH, CHỚ NƯƠNG TỰA MỘT GÌ KHÁC. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, DÙNG CHÁNH PHÁP làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác.”

Chánh pháp được Đức Phật di chúc lại là:

“Này Ananda, thế nào là vị Tỷ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác?

Này Ananda, ở đời, vị Tỷ-kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời.

Này Ananda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.

Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.”

(Kinh Ðại Bát-Niết-Bàn – Trường Bộ Kinh)

Đức Phật dạy chúng ta nương tựa vào CHÍNH MÌNH, và hóa giải ĐAU KHỔ (khổ đế) và đẩy trừ nguyên nhân của khổ (tập đế) ở 4 nơi thân, thọ, tâm, pháp của mình! Chứ không phải chạy đi đâu để tu tập, hay nương tựa.

Đến đây, những câu hỏi của các bạn ở trên đã phần nào được giải tỏa rồi?

Sài-gòn, 31.08.2020

Sunday, August 16, 2020

Kinh Girimānanda - Phật dạy cho người bị bệnh




Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Rồi Tôn giả Ānanda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:

- Tôn giả Girimānanda, bạch Thế Tôn, bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Lành thay, nếu Thế Tôn đi đến Tôn giả Girimānanda, vì lòng từ mẫn.

- Này Ānanda, nếu Thầy đi đến tỳ-khưu Girimānanda và đọc lên mười tưởng, thời sự kiện này có thể xảy ra: tỳ-khưu Girimānanda sau khi được nghe mười tưởng, bệnh của vị ấy có thể được thuyên giảm ngay lập tức. Thế nào là mười?

(1) Tưởng vô thường, (2) tưởng vô ngã, (3) tưởng bất tịnh, (4) tưởng nguy hại, (5) tưởng từ bỏ, (6) tưởng ly tham, (7) tưởng đoạn diệt, (8) tưởng nhàm chán đối với tất cả thế giới, (9) tưởng vô thường trong tất cả hành, (10) tưởng niệm hơi thở vô hơi thở ra.

(1) Và này Ānanda, thế nào là tưởng vô thường? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến ngôi rừng, hay đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau: "Sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường." Như vậy vị ấy trú, tùy quán vô thường, trong năm thủ uẩn này. Này Ānanda, đây gọi là tưởng vô thường.

(2) Và này Ānanda, thế nào là tưởng vô ngã? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau: "Mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã; tai là vô ngã, các tiếng là vô ngã; mũi là vô ngã, các hương là vô ngã; lưỡi là vô ngã, các vị là vô ngã; thân là vô ngã, xúc là vô ngã; ý là vô ngã, các pháp là vô ngã." Này Ānanda, đây gọi là tưởng vô ngã.

(3) Và này, Ānanda thế nào là tưởng bất tịnh? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu quán sát thân này từ bàn chân trở lên, từ đỉnh tóc trở xuống, được da bao bọc, đầy những vật bất tịnh sai biệt như: "Trong thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, dây gân, xương, tủy, thận, quả tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu". Như vậy, vị ấy trú quán bất tịnh trong thân này. Này Ānanda, đây gọi là tưởng bất tịnh.

(4) Và này Ānanda, thế nào là tưởng nguy hại? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau: "Nhiều khổ là thân này, nhiều sự nguy hại. Như vậy trong thân này, nhiều loại bệnh khởi lên. Ví như bệnh đau mắt, bệnh đau về tai, bệnh đau mũi, bệnh đau lưỡi, bệnh đau thân, bệnh đau đầu, bệnh đau vành tai, bệnh đau miệng, bệnh đau răng, bệnh ho, bệnh suyễn, bệnh sổ mũi, bệnh sốt, bệnh già yếu, bệnh đau yếu, bệnh đau bụng, bất tỉnh, kiết lỵ, bệnh đau bụng quặn, bệnh thổ tả, bệnh hủi, bệnh ung nhọt, bệnh ghẻ lở, bệnh ho lao, bệnh trúng gió, bệnh da, bệnh ngứa, bệnh da đóng vảy, bệnh hắc lào lang ben, bệnh ghẻ, bệnh huyết đảm (mật trong máu), bệnh đái đường, bệnh trĩ, bệnh mụt nhọt, bệnh ung nhọt ung loét, các bệnh khởi lên do mật, bệnh khởi lên từ đàm, niêm dịch, các bệnh khởi lên từ gió; bệnh do hòa hợp các thể dịch sinh ra; các bệnh do thời tiết sinh ra, các bệnh do làm việc quá độ sinh, các bệnh do sự trùng hợp các sự kiêng; các bệnh do nghiệp thuần thục, lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện". Như vậy, vị ấy sống, quán sự nguy hại trong thân này. Này Ānanda, đây gọi là các tưởng nguy hại.

(5) Và này Ānanda, thế nào là tưởng từ bỏ? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu, không có chấp nhận dục tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng; không có chấp nhận sân tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng; không có chấp nhận hại tầm đã sinh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng; không có chấp nhận các ác bất thiện pháp tiếp tục khởi lên, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sinh trưởng. Này Ānanda, đây được gọi tưởng từ bỏ.

(6) Và này Ānanda, thế nào là ly tham? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, suy xét như sau: ”Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sinh y, ái diệt, ly tham, Niết bàn”. Này Ānanda, đây được gọi tưởng ly tham.

(7) Và này Ānanda, thế nào là tưởng đoạn diệt? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, suy xét như sau: "Ðây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sinh y, ái diệt, đoạn diệt, Niết bàn". Này Ānanda, đây được gọi tưởng đoạn diệt.

(8) Và này Ānanda, thế nào là tưởng không ưa thích đối với tất cả thế giới? Ở đây, này Ānanda, phàm ở đời có những chấp thủ phương tiện, tâm quyết định, thiên kiến, tùy miên nào, tỳ-khưu từ bỏ chúng, không ưa thích, không chấp thủ. Này Ānanda, đây gọi là tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới.

(9) Và này các tỳ-khưu, thế nào là tưởng vô thường trong tất cả hành? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu bực phiền, xấu hổ, nhàm chán đối với tất cả hành. Này Ānanda, đây gọi là tưởng vô thường trong tất cả hành.

(10) Và này Ānanda, thế nào là tưởng niệm hơi thở vào, hơi thở ra? Ở đây, này Ānanda, tỳ-khưu đi đến khu rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra.
Thở vô dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở vô dài". Thở ra dài, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra dài", Hay thở vô ngắn, vị ấy rõ biết "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy rõ biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra," vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

Này Ānanda, đó là niệm hơi thở vô, hơi thở ra.

Này Ānanda, nếu thầy đi đến tỳ-khưu Girimānanda và đọc lên mười tưởng này, sự kiện này có xảy ra: tỳ-khưu Girimānanda, sau khi nghe mười tưởng này, bệnh của vị ấy được thuyên giảm ngay lập tức".

Rồi Tôn giả Ānanda, sau khi học thuộc từ Thế Tôn mười tưởng này, đi đến Tôn giả Girimānanda, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Girimānanda mười tưởng này. Tôn giả Girimānanda, sau khi nghe mười tưởng này, bệnh của vị ấy được thuyên giảm ngay lập tức. Tôn giả Girimānanda, được thoát khỏi bệnh ấy. Ðược đoạn tận như vậy là chứng bệnh ấy của Tôn giả Girimānanda.

Kinh Girimānanda (AN 10.60) Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Saturday, August 15, 2020

Niết Bàn


 Niết Bàn là trạng thái Diệt Đế, hết phiền não tham - sân - si - mạn - nghi, không còn dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Để đoạn diệt các lậu hoặc phiền não trên, Đức Phật dạy chúng ta tu tập Bát Chánh Đạo (Giới Định Tuệ) và các pháp hành trợ đạo như: Ngũ Căn - Ngũ Lực - Tứ Chánh Cần - Tứ Niệm Xứ - Tứ Vô Lượng Tâm - Tứ Như Ý Túc - Bảy Giác Chi.


Trong đó, Đức Phật dạy Chánh Kiến Mười Hai Nhân Duyên nhằm đoạn diệt các hành khổ (Khổ Đế và Tập Đế) trên thân ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) thì ngay hiện tại đạt được tâm bất động giải thoát Niết Bàn. Hoặc Đức Phật dạy Chánh Kiến quán các hành vô thường, các pháp vô ngã nhằm đoạn diệt mười kiết sử phiền não gồm có: năm hạ phần kiết sử thân kiến - nghi - giới cấm thủ - tham - sân; năm thượng phần kiết sử sắc tham - vô sắc tham - mạn - trạo cử - vô minh. Nếu hành giả đoạn được mười kiết sử trên thì chứng đạt tâm bất động giải thoát Niết Bàn.

Thích Bảo Nguyên