Wednesday, January 29, 2014

TU TẬP ĐỊNH CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY

Sau khi tu tập TỨ CHÁNH CẦN xong các thầy nên tiếp tục tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC định. Ở lộ trình này các cư sỹ đang tu phải tu theo từng hành động việc làm của mình, hằng ngày làm bất cứ việc gì quý vị chú ý việc ấy, không được sao nhãng hoặc nghĩ đến chuyện khác, phải luôn luôn chú ý hành động làm, tu trong tất cả việc làm. Đó là luôn luôn người cư sỹ hiện bây giờ đang thực tập để cho mình bước qua một giai đoạn mới, cái lộ trình mới, lộ trình của người tu sỹ thì mình luôn luôn tu tập trong các việc làm của mình để tập cho có sức tỉnh thức ở trong đó, cho có một cái CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC ở trong đó. Điều này rất khó nhưng Thầy dạy quý vị tu hành cũng không khó đâu. Nghĩa là bây giờ bảo mình cứ tu tập theo hành động của mình, chú ý theo hành động của mình, tu sao mà chút có vọng tưởng, chút có vọng tưởng à. Trời đất ơi làm sao mà tỉnh thức được. Cho nên không có cách thức tu, cho nên từ lâu tới giờ có nhiều người dạy tu trong mọi công việc, nhưng kết quả cho người ta tu mà được kéo dài từ ngày này tới ngày khác không bị vọng tưởng, không có vô ký trong đó thì ít có ai mà làm được hết. Còn đến đây Thầy dạy cho quý thầy sẽ làm được cái điều đó, mà có thể giúp cho quý thầy tỉnh thức suốt ngày này sang đến ngày khác, trong mọi công việc mà không cần phải có sự tập trung quá cao độ, quá tập trung trong các hành động.
Quý vị nên lưu ý tu trong hành động có 2 điều cần tránh. Ờ bây giờ mình phải biết tu trong hành động có 2 điều cần phải tránh:
  • Một là tránh suy tư chuyện khác, nghĩa là trong hành động đó mình tránh suy tư vọng tưởng. Đừng để  vọng tưởng xen vào trong công việc đang làm. Nghĩa là vừa làm việc mà vừa nghĩ chuyện khác, tức là thiếu sự tỉnh thức trong hành động.
  • Hai là tránh vô ký. Đó hành động mình vừa làm mà vừa nghĩ chuyện này chuyện kia đó là thiếu tỉnh thức rồi, thì phải lưu ý cái phần nhứt. Cái phần 2 là tránh vô ký, tức là đang làm mà không nhớ cử chỉ đang làm. Lúc bấy giờ đang rơi vào trạng thái không nghĩ tưởng, đó là thiếu tỉnh thức, thiếu tỉnh giác trong việc làm.

Tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC phải biết dùng 2 pháp. Nghĩa là trước Thầy nêu lên 2 cái lỗi ở trong sự tu tập đó: cái thứ nhất là vọng tưởng ở trong hành động, cái thứ 2 là vô ký ở trong hành động. Thì 2 cái đó phải diệt trừ, phải tiêu diệt nó, không được để trong sự tu tập. Chứ không phải tôi tu tập như vậy tôi giữ tỉnh thức được 5,3 phút rồi kế đến nó có vọng tưởng, rồi tôi tu 5,3 phút nữa kế đến có vọng tưởng. Hàng ngày tôi tu trong công việc mà nó cũng có vọng tưởng xen ra, thì người đó tu dậm chân tại chỗ, tu ngàn đời không được. Tức là chúng ta phải biết tu thế nào để làm chủ tuần tự thời gian chúng ta tăng dần tăng dần lên, chứ không phải ngày nào cũng tu trong hành động, cũng làm trong hành động, rồi tu có vọng tưởng ra vô ra vô hoài. Cũng tu vậy mà tu Chánh niệm tỉnh thức kiểu đó là tu dậm chân.
Còn bắt đầu bây giờ chúng ta cho một thời gian nhất định là chúng ta tu 30 phút ở trong hành động làm hoặc là quét sân hoặc là gì đó, đúng giờ chúng ta nghỉ, chúng ta xả, làm theo suy nghĩ gì của nó kệ nó, nhưng mà đúng giờ chúng ta tu. Chúng ta tu chừng năm phút hay mười phút mà chúng ta đạt kết quả chất lượng của tỉnh thức ở trong 5 phút hoặc 3 phút thôi rồi hoàn toàn xả nghỉ. Chứ sức của chúng ta không thể suốt ngày mà công việc mà chúng ta giữ nó được. Cho nên phải hiểu được sức của mình. Nhiều khi nói tu trong hành động, điên khùng mà tu suốt ngày, lúc nào cũng có vọng tưởng hết mà nói là tỉnh thức là tỉnh thức gì. Chúng ta tỉnh thức được 5 phút, 3 phút là may lắm rồi, từng đó chúng ta tập dần mà tăng dần lên rồi chúng ta có chất lượng cao và chừng đó chúng ta sẽ xiết tất cả thời gian tỉnh thức trong mọi hành động.
Bởi vì tu phải biết chứ, còn tu mà không biết, cứ tu điên tu khùng, thì tu ngàn đời. Cũng là nói tu trong công việc làm, ai nói cũng hay hết, cuối cùng thì chẳng có tỉnh thức gì hết. Bởi vì luôn luôn có xen kẽ vọng tưởng ra vô làm sao tỉnh thức được.
 Đó thì hôm nay thầy dạy để quý thầy biết cách mà tu tập pháp tỉnh thức. Cũng như nghe thầy nói tu pháp Chánh niệm tỉnh thức, thôi đi kinh hành lung tung lung tung, suốt ngày thấy đi chăm chăm, thôi thì cái kiểu này là tu ngu. Tu ngu! Tu như vậy là không bao giờ có tỉnh thức. Cho nên cuối cùng Thầy nhìn thấy quý thầy càng ngày là càng sai, là nó không có tập trung được cái độc cư, mà nó lại xuyên qua những cái khác, cho nên Thầy nhận ra rất rõ cái điều mà quý thầy…
Bây giờ tiếp tục bài học vừa rồi là tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC. Vậy thì phải tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC như thế nào? Như Thầy đã dạy ở trong cái vừa rồi đó… ở cái sức của mình, sức của mình ở cái mức thời gian nào thì mình nên tập luyện thời gian đó, chớ không phải lúc nào ở trong mọi hành động, mọi công việc mà mình tập tỉnh thức được liền. Mà ngay trong thời gian đầu tiên mới tu thì mình chọn thời gian ngắn nhất với sức của mình, mình tập sao cho có chất lượng cao, trong lúc đó mình giữ gìn mọi hành động của mình, mà sự tập trung của mình ở trong mọi hành động đó thì sức tỉnh thức nó mới có.
Muốn như vậy thì chúng ta phải nương vào 2 pháp: là pháp tùy và pháp hướng. Tùy pháp là nương theo hành động, bởi vì cái hành động của chúng ta gọi là pháp. Hàng ngày cái đối tượng hành động của chúng ta đó là pháp hành, cho nên chúng ta lấy hoạt động đi đứng hàng ngày hoặc công việc. Thì đó là pháp tùy theo hành động đó. Cho nên cái tâm chú ý vào hành động đó gọi là tùy pháp.
Còn hướng pháp là chúng ta nhắc nó, cho nên chúng ta tu tập thế nào mà nó tự nhiên, chớ không phải là tu tập theo cái kiểu mà thiếu tự nhiên. Ví dụ là tùy pháp: chúng ta làm công việc đó nó nhanh nhẹn thì chúng ta tùy theo sự nhanh nhẹn đó mà tập luyện, hoặc chúng ta làm chậm chạp thì chúng ta cũng tùy theo sự chậm chạp mà tập luyện cho nó tự nhiên. Chứ còn bây giờ chúng ta phải chú ý hành động thân của mình thì bắt đầu mình phải làm chậm cho thật chậm mới chú ý được hoặc làm cho nhanh mới chú ý được thì cái đó là mình mất tự nhiên, mình làm sai pháp hành của mình đi. Cái thân hành có người thì làm nhanh, có người thì làm chậm. Như bây giờ có người thì đi nhanh, có người thì đi chậm. Nhưng mà cái người đi chậm thì tùy theo pháp hành đi chậm của mình, mà mình tập tỉnh thức ở đó. Mà cái người đi nhanh thì cũng tùy theo cái đi nhanh mà mình tu CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC ở chỗ nhanh. Chớ không phải là bắt buộc mình, mình đi nhanh mà tu tập mình phải đi cho chậm trở lại, mà đi chậm như vậy thì nó không thể là đúng cách tự nhiên của nó. Cho nên chúng ta tu, nhiều khi chúng ta không biết chúng ta tu, có người thì nhanh nhẹn thanh thoát mà tu riết rồi thì đi chậm như con rùa, thấy coi cũng không được. Đó là những cái sai.
Rồi có nhiều người lại thấy mình đi chậm quá như vậy là sức tập trung của mình tu tập như vậy thấy nó quá lâu, cho nên lại là chạy nhảy nhanh nhẹn để là nương theo cái chỗ nhanh nhẹn đó để mà tu tập, thì nó cũng trật. Tùy theo cái pháp hành của thân chúng ta, nhanh thì chúng ta tu nhanh, chậm thì chúng ta tu chậm, chớ không phải bắt buộc nó vào khuôn khổ nào chậm nhanh theo cái ý của mình được. Bởi vì đây là cái pháp tự nó nó có cái pháp của nó cho nên mình chỉ hướng theo mà thôi, nương theo, tùy theo cái pháp mà tu tập.
Đó là tùy pháp theo hành động công việc sống hằng ngày mà tu tập sức tỉnh thức. Muốn đạt sức tỉnh thức này người tu sỹ phải dùng pháp hướng tâm NHƯ LÝ TÁC Ý. Bây giờ mình kèm theo pháp hướng tâm, mình nhắc để cái tâm của mình luôn luôn nhớ được cái hành động việc làm của mình, như mình nhắc: tôi đang làm việc gì thì tôi nhắc tôi đang làm việc đó. Nghĩa là mình làm việc gì thì mình nhắc theo nó. Ví dụ như bây giờ mình đang quét nhà, thì tôi chú ý hành động đang quét nhà và hướng tâm nhắc tôi đang quét nhà. Bây giờ mình dùng câu pháp hướng của mình: tôi đang quét nhà. Bây giờ mình đang quét nhà nên nhắc tôi đang quét nhà. Như vậy mình sẽ nhắc cái tâm nhớ hành động mình đang quét. Như đang nấu cơm thì mình lại nhắc tôi đang nấu cơm.
Đó là những cái mình hướng theo để giúp cho ý thức của mình tỉnh thức trong hành động của nó, mà nó không bị thất niệm, nó ở trong chánh niệm của nó. Cho nên chánh niệm của nó là cái hành động. Vì chúng ta đặt cái hành động để làm cho sức tỉnh giác của chúng ta có, cho nên lúc bấy giờ cái chánh niệm không phải là cái niệm nào thông suốt cái nọ cái kia gọi là chánh niệm mà chính hành động đó là chánh niệm của chúng ta, đã đặt ở trước mắt của chúng ta, trước ý của chúng ta. Cho nên cái đó gọi là chánh niệm. Mà nó chánh niệm luôn luôn lúc nào nó cũng biết hành động đó thì nó là tỉnh giác hay là tỉnh thức.
Hiểu như vậy thì chúng ta biết cái niệm của chúng ta là cái niệm gì, cái niệm hành động, cái niệm đang làm cái gì đó, đang làm công việc gì đó. Đó là cái niệm. Mà cái niệm đang hiện tiền trước mặt mình đó gọi là chánh niệm, chớ không phải là mình đặt cái niệm khác vào chỗ đó được, hay là mình đặt hơi thở vào chỗ đó được. Chánh niệm ở trên hành động thì phải là cái hành động chớ không phải cái hơi thở.
Còn nếu mà chúng ta vừa đặt cái đi kinh hành vừa biết chân đi mà vừa biết hơi thở thì như vậy là chúng ta đã đặt 2 cái niệm 1 lượt, thì như vậy là chúng ta sai. Đó không phải là chánh niệm, mà nó là niệm đôi ở trong đó thì nó trật. Cho nên chúng ta chỉ có biết mình đi kinh hành mà thôi, thì như vậy là mình đặt chánh niệm, thì lúc bấy giờ nó tỉnh giác ở trong chánh niệm đó, cho nên cái định gọi là Chánh niệm tỉnh giác định. Hiểu như vậy thì chúng ta không có đi hàng hai và không có đặt sai cái niệm. Nếu mà trong khi đi kinh hành có niệm gì nghĩ ở trong đầu thì cái đó là sai, tại vì là cái niệm khác chứ không phải niệm hành động của chúng ta, cho nên nó đâu có chánh niệm, bởi vì cái niệm đó không phải là niệm mình đặt, nên nó là tà niệm.
Đi trên hè phố thì nhắc: tôi biết tôi đang đi trên hè phố. Đó thì mình đang đi trên hè phố thì mình nhắc: tôi biết tôi đang đi trên hè phố. Đó là pháp hướng của mình để cho cái chánh niệm của mình đang đi trên hè phố.
Đó là những cái mà chúng ta cần phải hướng theo để tâm ý chúng ta lúc nào nó cũng tỉnh thức trên hành động mà chúng ta đang đi. Mà hành động đó là cái chánh niệm. Chứ nghe chánh niệm mà chúng ta nói: ờ thì bây giờ nói về cái niệm chơn chánh của chúng ta thì nói: đời là khổ là niệm chơn chánh, thì vậy là nó sai đi, nó thuộc về cái loại khác, nó thuộc về cái loại định khác chứ không phải là cái định chánh niệm tỉnh thức ở đây. Mình nghe chánh niệm rồi mình đem cái chánh niệm nào đó vô chỗ này thì nó là sai. Mình phải hiểu được cái chánh niệm trong khi đi kinh hành cái niệm nó như thế nào, mà thất niệm, tức là mất cái niệm đó đi, Đức Phật gọi là thất niệm. Thí dụ mình đang đi kinh hành mà mình quên mình đang đi kinh hành là bị thất niệm.
Thầy giải thích như vậy để quý thầy thấy rõ chỗ thất niệm, để chúng ta biết chỗ tu chúng ta đúng hay là sai. Cũng như một người đang tu định vô lậu mà đang quán cái thân bất tịnh, bỗng dưng nhớ chuyện gì khác đi, không có quán thân bất tịnh mà lại quán câu kinh: ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm, suy nghĩ về câu đó, thì như vậy là thất niệm. Đang có cái niệm đó nó nói về tâm của mình như thế này như thế khác ở trong kinh điển mà trong khi đó mình đang quán bất tịnh của cái thân này. Mà cái thân này đang quán bất tịnh là cái chánh niệm, mà quán một câu kinh nào đó thì nó là thất niệm. Nó là cái tà niệm chứ không phải chánh niệm của người đang tu pháp môn vô lậu. Phải hiểu mặc dù niệm đó không phải là niệm thế gian, nhưng nó vẫn là niệm không đúng vị trí nó đứng. Mà mình đặt niệm đó ngay chỗ mình đang tu pháp, nó không đúng cái pháp, do đó niệm đó thuộc về tà niệm chớ không phải là chánh niệm. Mà cái niệm như vậy xen vào thì đương nhiên xem người tu hành đó bị thất niệm.
Đang xúc miệng thì nhắc: tôi biết tôi đang xúc miệng. Nghĩa là mình đang xúc miệng rửa mặt đó thì mình nhắc: tôi xúc miệng tôi biết tôi xúc miệng. Đang ăn cơm thì nhắc: tôi biết tôi đang ăn cơm. Đang nhai thực phẩm: tôi biết tôi đang nhai thực phẩm. Như vậy là lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức ở trong cái chánh niệm của cái hành động đang nhai. Đang mặc áo thì tôi cũng nhắc: tôi biết tôi đang mặc áo. Mình nhắc như vậy tức là pháp hướng của mình kèm theo để cho mình biết hành động của mình đang xỏ tay vô cái tay áo, rồi đang gài nút. Thì cái đó là những cái nhắc chúng ta đang, trong hiện tại đó, chúng ta đang làm cái việc đó. Cho nên ý chúng ta luôn luôn bị cái pháp hướng mà nó không chạy ra khỏi cái chánh niệm của nó. Cho nên luôn luôn lúc nào nó cũng ở trong cái chánh niệm của nó.
Như vậy hôm nay quý thầy đã biết chánh niệm của nó là cái niệm gì, khi chúng ta đã đặt nó trước mặt của chúng ta. Cho nên Phật bảo, ví dụ như mình đang ngồi tu cái định nào thì mình cứ đặt cái niệm trước mặt. Thì bây giờ mình đặt cái niệm chánh niệm tỉnh thức, cái niệm hành động, thì tức là trong hành động thì mình phải đặt nó trước mặt của mình. Luôn luôn phải biết giữ nó, đừng cho thất niệm. Thì như vậy là chúng ta mới có sức tỉnh thức, tỉnh giác cao. Còn nếu bị thất niệm thì nó không có sức tỉnh giác cao đâu.
Đó là người tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC định luôn luôn dùng pháp tùy và pháp hướng để giúp cho tâm có thời gian kéo dài sức tỉnh giác ra. Mình cứ nhắc vậy thì nó kéo dài thời gian tỉnh giác. Nhưng như vừa rồi Thầy cũng nhắc quý thầy là chúng ta phải khéo, phải khéo như thế nào? Vì cái sức của chúng ta nó không thể giờ này đến giờ khác mà nó tỉnh thức nổi đâu. Cho nên chúng ta tập chừng 5 phút chúng ta nghỉ, nghỉ xả 30 phút hoặc là 15 phút. Bắt đầu chúng ta tu lại 5 phút.
Chúng ta tu lại cái sức tỉnh rất cao, cái chánh niệm của chúng ta nó hoàn toàn an trú trong hành động, chánh niệm nó không có thất niệm, nó không có mất. Còn chúng ta tu nhiều quá nó lờ mờ, mặc dù chúng ta có cái chánh niệm, tức là niệm hành động của chúng ta nó không mất, nhưng nó không rõ, do đó cái sức tỉnh nó không cao. Vì vậy mà chúng ta tu mất thì giờ rất lớn. Lưu ý phần này thì các thầy tu ít nhưng mà đạt cái chất lượng cao. Rồi từ cái sức tỉnh của chúng ta ngày càng cao thì chúng ta lại tăng dần lên, thì chúng ta sẽ thấy rất là tỉnh. Thà là mình tu ít mà lúc bấy giờ mình tập trung vào cái gì đó, lúc đó cái sức tỉnh mình rất cao, và cái sức tỉnh rất cao thì nó mới có cái tri kiến giải thoát nó mới phóng ra, nó mới tu định vô lậu, nó mới quét sạch những cái lậu hoặc. Còn cái sức tỉnh mình nó thấp quá, mình ngồi lại mình dùng cái niệm vô lậu để mình quán xét thì mình ngồi hoài mà nó không phóng ra được, đó là cái sức tỉnh mình không có nên cái tri kiến giải thoát không phóng ra được. Khi mình chưa có đủ sức tỉnh thì mình dùng cái tri kiến, tri kiến tức là cái sự hiểu biết vay mượn của người khác để rồi mình suy xét, quán xét từ đầu đến chân của mình bằng cách này bằng cách khác. Còn khi mà chúng ta đã có sức tỉnh thức rồi thì chúng ta không cần vay mượn của ai hết mà chúng ta chỉ cần đặt cái niệm trước mặt: chẳng hạn niệm thân bất tịnh hay niệm thân vô thường vô ngã. Chúng ta đặt cái niệm trước mặt, chúng ta ngồi im lặng một chút xíu, tự ở trong tâm chúng ta phóng ra tri kiến giải thoát, từ đó nó quán xét, thấy rất rõ tất cả những cái bất tịnh như thế nào, tự nó nó quán sát không vay mượn của ai hết, mà nó thông suốt như vậy đó gọi là tri kiến giải thoát.
Nhưng vì sức tỉnh thức của chúng ta không có, cho nên nó ngồi lại ỳ đó mà nó không phóng ra được, bởi vì tỉnh thức không cao. Vì vậy khi chúng ta tu tập chừng 5 phút hay 10 phút mà cái sức cao rồi thì tự chúng ta ngồi im lặng là nó phóng ra liền. Bởi vì người ta nói Định thì có Tuệ. Mà mình chưa có đủ cái Định, tức là cái tỉnh thức, cái sức tỉnh thức tức là cái sức định chứ đâu phải là cái gì, nó là cái sức nhiếp tâm của chúng ta, cho nên chúng ta chưa có nó thì cái Tuệ nó không phóng ra được, mà nó không phóng ra được thì tri kiến giải thoát không có, mà tri kiến giải thoát không có thì tâm ta còn biết bao nhiêu cái ràng buộc dính mắc. Cho nên chúng ta muốn giải quyết sự ràng buộc dính mắc của lậu hoặc này thì chúng ta phải dùng cái tri kiến, tức là cái vay mượn, cái hiểu biết của kinh điển, của quý thầy dạy bảo để chúng ta hiểu được cái bất tịnh như thế nào, cái vô thường như thế nào để chúng ta quán xét theo sự hiểu biết của vay mượn, chứ không thể có tri kiến giải thoát được.
Đó thì sự tu tập nó phải rõ như vậy, chứ nếu mà không biết thì chúng ta ngồi ỳ đó hoài mà tri kiến giải thoát nó không phóng ra, rồi cứ nương theo hơi thở, tưởng đó là mình thiền định, chứ thực ra mình bị thất niệm. Mình thất niệm là vì cái định này nó không thể nào ở trong hơi thở được. Rồi mình tưởng là ở trong hơi thở nó không có vọng tưởng, đó là mình không có thất niệm; nhưng thật sự là mình tu lầm lạc, rồi mình  tu sang qua một pháp khác, mà mình không có chủ động điều khiển được, tức là thiếu sự làm chủ.
Nhưng quý vị chú ý, ở đây hướng tâm chứ không phải niệm câu pháp hướng. Cái phần này chúng ta cũng phải rõ là chúng ta hướng tâm, chứ không phải là niệm, để không rồi chúng ta cứ liên miên mà niệm thì nó cũng lại trật. Ở đây hướng tâm chứ không phải niệm câu pháp hướng. Vì hướng tâm phải có cách khoảng thời gian câu hướng này với câu hướng kia, nghĩa là chúng ta phải có khoảng thời gian.
Ví dụ bây giờ chúng ta hướng này: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân.
Thì không thể nào chúng ta lặp lại một lần thứ 2 kế tiếp nữa: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân. Rồi nói: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân… Mình lặp lia lịa vậy gọi là niệm. Còn mình nhắc một câu: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân, rồi chúng ta cứ tự nhiên mà chúng ta quét, để cho cái sức ý thức của chúng ta tập trung nơi hành động chánh niệm của nó đang quét. Thì một khoảng cách độ chừng 3 phút, 5 phút chúng ta lại nhắc một lần nữa. Thì cứ có khoảng cách để tâm nó lặng theo hành động tập trung mà không cần tác ý ra nữa, do đó gọi là pháp hướng. Còn nếu mà cứ liên tục niệm thì đó là niệm pháp hướng chứ không phải là hướng tâm.
Cho nên chúng ta ở đây cũng phải hiểu được cái điều này. Người mới tu họ không biết thì cứ tu liên tục lúc nào cũng nhắc. Thí dụ đi kinh hành thì họ cứ nhắc: tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành, rồi lúc nữa họ cũng nhắc liên tục nữa, thì cái đó là cái sai, cho nên khi mình nhắc rồi thì phải tuần tự để cho có thời gian lắng tâm xuống trong cái Chánh niệm, trong cái hành động đi của chúng ta. Thì khi mà lắng tâm trong cái khoảng thời gian đó, cái sức tỉnh nó tăng lên, đồng thời thời gian mà lắng tâm đó nó sẽ bị vơi đi, tức là sức tập trung của chúng ta, dần dần ý thức nó chưa quen cho nên nó không có tập trung chặt vào đó được, cho nên nó lơi lỏng. Nó lơi lỏng thì chúng ta lại dùng 1 cái pháp, câu hướng nữa, lại nhắc nó một lần nữa: tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Thì từ đó nó lại tập trung vào hành động đi nữa, thì nó lại tỉnh thức cao hơn nữa, do đó chúng ta cứ tiếp tục như vậy thì cái sức tỉnh nó lại càng cao.
Nhưng mà rồi nó có trường hợp, là tại vì quý thầy đã tu tập cái hơi thở nhiều quá thay vì chúng ta chưa nên tập hơi thở trong cái lúc này, mà phải tu các định khác. Bây giờ nó lại quen hơi thở, vừa đi mà lại vừa biết hơi thở. Cho nên Phật dạy tất cả các pháp chúng ta đều có thể nương hơi thở mà tập được, do đó chúng ta nhắc câu ám thị, nó vừa là có hơi thở vừa có chánh niệm tỉnh thức của hành động chúng ta đi nữa. Thì: hơi thở vô tôi biết tôi thở vô, hơi thở ra tôi biết hơi thở ra. Hơi thở vô tôi biết tôi đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đi kinh hành.
Đó là những câu nhắc để lấy dùng hơi thở làm cho tập trung với hành động đi, chớ không phải tập trung hơi thở. Nhưng tại vì cái tâm của mình nó đã quen với hơi thở nên vừa đi mà vừa biết hơi thở, cho nên mình nhắc: hơi thở vô tôi biết tôi đang đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đang đi kinh hành. Mình dùng cái hơi thở mình tập trung xuống hành động liền, nó làm cho mình tỉnh thức ngay liền và đồng thời bỏ hơi thở được. Đó là những cách có thể nương hơi thở mà tu vào cái Chánh niệm tỉnh thức để cho chúng ta càng tỉnh thức hơn.
Đó, đó là những cách thức tu tập để chúng ta tu chánh niệm tỉnh thức cho nó đạt được cái mức tỉnh thức cao. Vì hướng tâm phải có cái khoảng thời gian, ít ra câu hướng này với câu hướng kia, người mới tu 30 phút mới hướng một lần, còn người tu lâu có sức tỉnh thức nhiều, một phút hoặc 2 phút hướng một lần. Nghĩa là người mới tu mà tu 30 phút thì họ phải tu trong 1 phút họ phải hướng 1 lần hoặc 2 phút họ hướng 1 lần. Còn người tu lâu thì khoảng 5 phút hay 10 phút họ mới hướng 1 lần. Nếu mà thấy sức tỉnh thức của mình mà nó luôn luôn tập trung ở hành động đi của mình thì lúc bấy giờ lâu lâu mình mới hướng, mà thấy nó lờ mờ, nó bị hàng hai (nó nương hơi thở hoặc nó bị âm thanh tác động, nó đi hàng hai trong đó) thì ngay đó mình phải hướng liền cho nó gom lại, chớ không khéo nó lờ mờ. Nó đi hàng hai là nó lờ mờ rồi đó, nó không tập trung được rồi, nó không tỉnh thức đâu.

Cho nên khi đó người tu thì người ta thiện xảo lắm, người ta phải khéo léo ở trong sự tu tập. Người ta biết cái tâm của mình lúc ấy nó lờ mờ rồi, người ta biết lúc bấy giờ nó rất tỉnh rồi. Mà lúc lờ mờ người ta biết, cho nên người ta rất khéo léo dùng pháp hướng là cái chỗ lờ mờ, chỗ tỉnh thì người ta không dùng pháp hướng nữa để cho nó tập trung ở trong sức tỉnh. Mà nó lờ mờ thì ngay đó chúng ta phải dùng pháp hướng để phá liền để cho ý thức của chúng ta nó gom lại cho nó mạnh. Biết rõ như vậy thì chúng ta tu rất là có kết quả. Ở đây không được nhắc liền miệng, vì nhắc liền miệng là niệm câu trạch pháp hướng, như vậy sẽ tu sai, sau này sẽ rơi vào định tưởng, lệch đường tu giải thoát của đạo Phật. Nghĩa là rơi vào những định tưởng, niệm riết rồi nó sẽ rơi vào những định tưởng, nó làm cho chúng ta có sự an lạc trong khi niệm mà nó không có đúng cái pháp hướng. 
___
Nguồn: Băng số 15 - Giáo án đường lối tu tập đạo Phật - Trưởng lão Thích Thông Lạc
Link pháp âm: http://hoctapdaoduc.blogspot.com/2013/12/phap-thoai-mp3-cua-uc-truong-lao-thich.html

No comments:

Post a Comment