Sau khi
tu tập TỨ CHÁNH CẦN xong các thầy nên tiếp tục tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC
định. Ở lộ trình này các cư sỹ đang tu phải tu theo từng hành động việc làm của
mình, hằng ngày làm bất cứ việc gì quý vị chú ý việc ấy, không được sao nhãng
hoặc nghĩ đến chuyện khác, phải luôn luôn chú ý hành động làm, tu trong tất cả
việc làm. Đó là luôn luôn người cư sỹ hiện bây giờ đang thực tập để cho mình
bước qua một giai đoạn mới, cái lộ trình mới, lộ trình của người tu sỹ thì mình
luôn luôn tu tập trong các việc làm của mình để tập cho có sức tỉnh thức ở
trong đó, cho có một cái CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC ở trong đó. Điều này rất khó
nhưng Thầy dạy quý vị tu hành cũng không khó đâu. Nghĩa là bây giờ bảo mình cứ
tu tập theo hành động của mình, chú ý theo hành động của mình, tu sao mà chút
có vọng tưởng, chút có vọng tưởng à. Trời đất ơi làm sao mà tỉnh thức được. Cho
nên không có cách thức tu, cho nên từ lâu tới giờ có nhiều người dạy tu trong
mọi công việc, nhưng kết quả cho người ta tu mà được kéo dài từ ngày này tới
ngày khác không bị vọng tưởng, không có vô ký trong đó thì ít có ai mà làm được
hết. Còn đến đây Thầy dạy cho quý thầy sẽ làm được cái điều đó, mà có thể giúp
cho quý thầy tỉnh thức suốt ngày này sang đến ngày khác, trong mọi công việc mà
không cần phải có sự tập trung quá cao độ, quá tập trung trong các hành động.
Quý vị nên
lưu ý tu trong hành động có 2 điều cần tránh. Ờ bây giờ mình phải biết tu trong
hành động có 2 điều cần phải tránh:
- Một là tránh suy tư chuyện khác, nghĩa là trong hành động đó mình tránh suy tư vọng tưởng. Đừng để vọng tưởng xen vào trong công việc đang làm. Nghĩa là vừa làm việc mà vừa nghĩ chuyện khác, tức là thiếu sự tỉnh thức trong hành động.
- Hai là tránh vô ký. Đó hành động mình vừa làm mà vừa nghĩ chuyện này chuyện kia đó là thiếu tỉnh thức rồi, thì phải lưu ý cái phần nhứt. Cái phần 2 là tránh vô ký, tức là đang làm mà không nhớ cử chỉ đang làm. Lúc bấy giờ đang rơi vào trạng thái không nghĩ tưởng, đó là thiếu tỉnh thức, thiếu tỉnh giác trong việc làm.
Tu
CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC phải biết dùng 2 pháp. Nghĩa là trước Thầy nêu lên 2 cái
lỗi ở trong sự tu tập đó: cái thứ nhất là vọng tưởng ở trong hành động, cái thứ
2 là vô ký ở trong hành động. Thì 2 cái đó phải diệt trừ, phải tiêu diệt nó,
không được để trong sự tu tập. Chứ không phải tôi tu tập như vậy tôi giữ tỉnh
thức được 5,3 phút rồi kế đến nó có vọng tưởng, rồi tôi tu 5,3 phút nữa kế đến
có vọng tưởng. Hàng ngày tôi tu trong
công việc mà nó cũng có vọng tưởng xen ra, thì người đó tu dậm chân tại chỗ, tu
ngàn đời không được. Tức là chúng ta phải biết tu thế nào để làm chủ tuần
tự thời gian chúng ta tăng dần tăng dần lên, chứ không phải ngày nào cũng tu
trong hành động, cũng làm trong hành động, rồi tu có vọng tưởng ra vô ra vô
hoài. Cũng tu vậy mà tu Chánh niệm tỉnh thức kiểu đó là tu dậm chân.
Còn bắt
đầu bây giờ chúng ta cho một thời gian nhất định là chúng ta tu 30 phút ở trong
hành động làm hoặc là quét sân hoặc là gì đó, đúng giờ chúng ta nghỉ, chúng ta
xả, làm theo suy nghĩ gì của nó kệ nó, nhưng mà đúng giờ chúng ta tu. Chúng ta
tu chừng năm phút hay mười phút mà chúng ta đạt kết quả chất lượng của tỉnh
thức ở trong 5 phút hoặc 3 phút thôi rồi hoàn toàn xả nghỉ. Chứ sức của chúng
ta không thể suốt ngày mà công việc mà chúng ta giữ nó được. Cho nên phải hiểu
được sức của mình. Nhiều khi nói tu trong hành động, điên khùng mà tu suốt
ngày, lúc nào cũng có vọng tưởng hết mà nói là tỉnh thức là tỉnh thức gì. Chúng
ta tỉnh thức được 5 phút, 3 phút là may lắm rồi, từng đó chúng ta tập dần mà
tăng dần lên rồi chúng ta có chất lượng cao và chừng đó chúng ta sẽ xiết tất cả
thời gian tỉnh thức trong mọi hành động.
Bởi vì
tu phải biết chứ, còn tu mà không biết, cứ tu điên tu khùng, thì tu ngàn đời.
Cũng là nói tu trong công việc làm, ai nói cũng hay hết, cuối cùng thì chẳng có
tỉnh thức gì hết. Bởi vì luôn luôn có xen kẽ vọng tưởng ra vô làm sao tỉnh thức
được.
Đó thì hôm nay thầy dạy để quý thầy biết cách
mà tu tập pháp tỉnh thức. Cũng như nghe thầy nói tu pháp Chánh niệm tỉnh thức,
thôi đi kinh hành lung tung lung tung, suốt ngày thấy đi chăm chăm, thôi thì
cái kiểu này là tu ngu. Tu ngu! Tu như vậy là không bao giờ có tỉnh thức. Cho
nên cuối cùng Thầy nhìn thấy quý thầy càng ngày là càng sai, là nó không có tập
trung được cái độc cư, mà nó lại xuyên qua những cái khác, cho nên Thầy nhận ra
rất rõ cái điều mà quý thầy…
Bây giờ
tiếp tục bài học vừa rồi là tu CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC. Vậy thì phải tu CHÁNH NIỆM
TỈNH GIÁC như thế nào? Như Thầy đã dạy ở trong cái vừa rồi đó… ở cái sức của
mình, sức của mình ở cái mức thời gian nào thì mình nên tập luyện thời gian đó,
chớ không phải lúc nào ở trong mọi hành động, mọi công việc mà mình tập tỉnh
thức được liền. Mà ngay trong thời gian đầu tiên mới tu thì mình chọn thời gian
ngắn nhất với sức của mình, mình tập sao cho có chất lượng cao, trong lúc đó
mình giữ gìn mọi hành động của mình, mà sự tập trung của mình ở trong mọi hành
động đó thì sức tỉnh thức nó mới có.
Muốn
như vậy thì chúng ta phải nương vào 2 pháp: là pháp tùy và pháp hướng.
Tùy pháp là nương theo hành động, bởi vì cái hành động của chúng ta gọi là
pháp. Hàng ngày cái đối tượng hành động của chúng ta đó là pháp hành, cho nên
chúng ta lấy hoạt động đi đứng hàng ngày hoặc công việc. Thì đó là pháp tùy
theo hành động đó. Cho nên cái tâm chú ý vào hành động đó gọi là tùy pháp.
Còn
hướng pháp là chúng ta nhắc nó, cho nên chúng ta tu tập thế nào mà nó tự nhiên,
chớ không phải là tu tập theo cái kiểu mà thiếu tự nhiên. Ví dụ là tùy pháp:
chúng ta làm công việc đó nó nhanh nhẹn thì chúng ta tùy theo sự nhanh nhẹn đó
mà tập luyện, hoặc chúng ta làm chậm chạp thì chúng ta cũng tùy theo sự chậm
chạp mà tập luyện cho nó tự nhiên. Chứ còn bây giờ chúng ta phải chú ý hành
động thân của mình thì bắt đầu mình phải làm chậm cho thật chậm mới chú ý được
hoặc làm cho nhanh mới chú ý được thì cái đó là mình mất tự nhiên, mình làm sai
pháp hành của mình đi. Cái thân hành có người thì làm nhanh, có người thì làm
chậm. Như bây giờ có người thì đi nhanh, có người thì đi chậm. Nhưng mà cái
người đi chậm thì tùy theo pháp hành đi chậm của mình, mà mình tập tỉnh thức ở
đó. Mà cái người đi nhanh thì cũng tùy theo cái đi nhanh mà mình tu CHÁNH NIỆM
TỈNH THỨC ở chỗ nhanh. Chớ không phải là bắt buộc mình, mình đi nhanh mà tu tập
mình phải đi cho chậm trở lại, mà đi chậm như vậy thì nó không thể là đúng cách
tự nhiên của nó. Cho nên chúng ta tu, nhiều khi chúng ta không biết chúng ta
tu, có người thì nhanh nhẹn thanh thoát mà tu riết rồi thì đi chậm như con rùa,
thấy coi cũng không được. Đó là những cái sai.
Rồi có
nhiều người lại thấy mình đi chậm quá như vậy là sức tập trung của mình tu tập
như vậy thấy nó quá lâu, cho nên lại là chạy nhảy nhanh nhẹn để là nương theo
cái chỗ nhanh nhẹn đó để mà tu tập, thì nó cũng trật. Tùy theo cái pháp hành
của thân chúng ta, nhanh thì chúng ta tu nhanh, chậm thì chúng ta tu chậm, chớ
không phải bắt buộc nó vào khuôn khổ nào chậm nhanh theo cái ý của mình được.
Bởi vì đây là cái pháp tự nó nó có cái pháp của nó cho nên mình chỉ hướng theo
mà thôi, nương theo, tùy theo cái pháp mà tu tập.
Đó là tùy pháp theo hành
động công việc sống hằng ngày mà tu tập sức tỉnh thức. Muốn đạt sức tỉnh thức
này người tu sỹ phải dùng pháp hướng tâm NHƯ LÝ TÁC Ý. Bây giờ mình kèm theo
pháp hướng tâm, mình nhắc để cái tâm của mình luôn luôn nhớ được cái hành động
việc làm của mình, như mình nhắc: tôi đang làm việc gì thì tôi nhắc tôi đang
làm việc đó. Nghĩa là mình làm việc gì thì mình nhắc theo nó. Ví dụ như bây giờ
mình đang quét nhà, thì tôi chú ý hành động đang quét nhà và hướng tâm nhắc tôi đang quét nhà. Bây giờ mình dùng câu
pháp hướng của mình: tôi đang quét nhà.
Bây giờ mình đang quét nhà nên nhắc tôi đang quét nhà. Như vậy mình sẽ nhắc cái
tâm nhớ hành động mình đang quét. Như đang nấu cơm thì mình lại nhắc tôi đang nấu cơm.
Đó là những cái mình
hướng theo để giúp cho ý thức của mình tỉnh thức trong hành động của nó, mà nó
không bị thất niệm, nó ở trong chánh niệm của nó. Cho nên chánh niệm của nó là
cái hành động. Vì chúng ta đặt cái hành động để làm cho sức tỉnh giác của chúng
ta có, cho nên lúc bấy giờ cái chánh niệm không phải là cái niệm nào thông suốt
cái nọ cái kia gọi là chánh niệm mà chính hành động đó là chánh niệm của chúng
ta, đã đặt ở trước mắt của chúng ta, trước ý của chúng ta. Cho nên cái đó gọi
là chánh niệm. Mà nó chánh niệm luôn luôn
lúc nào nó cũng biết hành động đó thì nó là tỉnh giác hay là tỉnh thức.
Hiểu như vậy thì chúng
ta biết cái niệm của chúng ta là cái niệm gì, cái niệm hành động, cái niệm đang
làm cái gì đó, đang làm công việc gì đó. Đó là cái niệm. Mà cái niệm đang hiện
tiền trước mặt mình đó gọi là chánh niệm, chớ không phải là mình đặt cái niệm
khác vào chỗ đó được, hay là mình đặt hơi thở vào chỗ đó được. Chánh niệm ở
trên hành động thì phải là cái hành động chớ không phải cái hơi thở.
Còn nếu mà chúng ta vừa
đặt cái đi kinh hành vừa biết chân đi mà vừa biết hơi thở thì như vậy là chúng
ta đã đặt 2 cái niệm 1 lượt, thì như vậy là chúng ta sai. Đó không phải là
chánh niệm, mà nó là niệm đôi ở trong đó thì nó trật. Cho nên chúng ta chỉ có
biết mình đi kinh hành mà thôi, thì như vậy là mình đặt chánh niệm, thì lúc bấy
giờ nó tỉnh giác ở trong chánh niệm đó, cho nên cái định gọi là Chánh niệm tỉnh
giác định. Hiểu như vậy thì chúng ta không có đi hàng hai và không có đặt sai
cái niệm. Nếu mà trong khi đi kinh hành có niệm gì nghĩ ở trong đầu thì cái đó
là sai, tại vì là cái niệm khác chứ không phải niệm hành động của chúng ta, cho
nên nó đâu có chánh niệm, bởi vì cái niệm đó không phải là niệm mình đặt, nên
nó là tà niệm.
Đi trên hè phố thì nhắc: tôi biết tôi đang đi trên hè phố. Đó
thì mình đang đi trên hè phố thì mình nhắc: tôi biết tôi đang đi trên hè phố.
Đó là pháp hướng của mình để cho cái chánh niệm của mình đang đi trên hè phố.
Đó là những cái mà chúng
ta cần phải hướng theo để tâm ý chúng ta lúc nào nó cũng tỉnh thức trên hành
động mà chúng ta đang đi. Mà hành động đó là cái chánh niệm. Chứ nghe chánh
niệm mà chúng ta nói: ờ thì bây giờ nói về cái niệm chơn chánh của chúng ta thì
nói: đời là khổ là niệm chơn chánh, thì vậy là nó sai đi, nó thuộc về cái loại
khác, nó thuộc về cái loại định khác chứ không phải là cái định chánh niệm tỉnh
thức ở đây. Mình nghe chánh niệm rồi mình đem cái chánh niệm nào đó vô chỗ này
thì nó là sai. Mình phải hiểu được cái chánh niệm trong khi đi kinh hành cái
niệm nó như thế nào, mà thất niệm, tức là mất cái niệm đó đi, Đức Phật gọi là
thất niệm. Thí dụ mình đang đi kinh hành mà mình quên mình đang đi kinh hành là
bị thất niệm.
Thầy giải thích như vậy
để quý thầy thấy rõ chỗ thất niệm, để chúng ta biết chỗ tu chúng ta đúng hay là
sai. Cũng như một người đang tu định vô lậu mà đang quán cái thân bất tịnh,
bỗng dưng nhớ chuyện gì khác đi, không có quán thân bất tịnh mà lại quán câu
kinh: ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm, suy nghĩ về câu đó, thì như vậy là thất
niệm. Đang có cái niệm đó nó nói về tâm của mình như thế này như thế khác ở
trong kinh điển mà trong khi đó mình đang quán bất tịnh của cái thân này. Mà
cái thân này đang quán bất tịnh là cái chánh niệm, mà quán một câu kinh nào đó
thì nó là thất niệm. Nó là cái tà niệm chứ không phải chánh niệm của người đang
tu pháp môn vô lậu. Phải hiểu mặc dù niệm đó không phải là niệm thế gian, nhưng
nó vẫn là niệm không đúng vị trí nó đứng. Mà mình đặt niệm đó ngay chỗ mình
đang tu pháp, nó không đúng cái pháp, do đó niệm đó thuộc về tà niệm chớ không
phải là chánh niệm. Mà cái niệm như vậy xen vào thì đương nhiên xem người tu
hành đó bị thất niệm.
Đang xúc miệng thì nhắc:
tôi biết tôi đang xúc miệng. Nghĩa là
mình đang xúc miệng rửa mặt đó thì mình nhắc: tôi xúc miệng tôi biết tôi xúc miệng. Đang ăn cơm thì nhắc: tôi biết tôi đang ăn cơm. Đang nhai thực
phẩm: tôi biết tôi đang nhai thực phẩm. Như
vậy là lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức ở trong cái chánh niệm của cái hành động
đang nhai. Đang mặc áo thì tôi cũng nhắc: tôi
biết tôi đang mặc áo. Mình nhắc như vậy tức là pháp hướng của mình kèm theo
để cho mình biết hành động của mình đang xỏ tay vô cái tay áo, rồi đang gài
nút. Thì cái đó là những cái nhắc chúng ta đang, trong hiện tại đó, chúng ta
đang làm cái việc đó. Cho nên ý chúng ta luôn luôn bị cái pháp hướng mà nó
không chạy ra khỏi cái chánh niệm của nó. Cho nên luôn luôn lúc nào nó cũng ở
trong cái chánh niệm của nó.
Như vậy hôm nay quý thầy
đã biết chánh niệm của nó là cái niệm gì, khi chúng ta đã đặt nó trước mặt của
chúng ta. Cho nên Phật bảo, ví dụ như mình đang ngồi tu cái định nào thì mình
cứ đặt cái niệm trước mặt. Thì bây giờ mình đặt cái niệm chánh niệm tỉnh thức,
cái niệm hành động, thì tức là trong hành động thì mình phải đặt nó trước mặt
của mình. Luôn luôn phải biết giữ nó, đừng cho thất niệm. Thì như vậy là chúng
ta mới có sức tỉnh thức, tỉnh giác cao. Còn nếu bị thất niệm thì nó không có
sức tỉnh giác cao đâu.
Đó là người tu CHÁNH
NIỆM TỈNH GIÁC định luôn luôn dùng pháp tùy và pháp hướng để giúp cho tâm có
thời gian kéo dài sức tỉnh giác ra. Mình cứ nhắc vậy thì nó kéo dài thời gian
tỉnh giác. Nhưng như vừa rồi Thầy cũng nhắc quý thầy là chúng ta phải khéo,
phải khéo như thế nào? Vì cái sức của chúng ta nó không thể giờ này đến giờ
khác mà nó tỉnh thức nổi đâu. Cho nên chúng ta tập chừng 5 phút chúng ta nghỉ,
nghỉ xả 30 phút hoặc là 15 phút. Bắt đầu chúng ta tu lại 5 phút.
Chúng ta tu lại cái sức
tỉnh rất cao, cái chánh niệm của chúng ta nó hoàn toàn an trú trong hành động,
chánh niệm nó không có thất niệm, nó không có mất. Còn chúng ta tu nhiều quá nó
lờ mờ, mặc dù chúng ta có cái chánh niệm, tức là niệm hành động của chúng ta nó
không mất, nhưng nó không rõ, do đó cái sức tỉnh nó không cao. Vì vậy mà chúng
ta tu mất thì giờ rất lớn. Lưu ý phần này thì các thầy tu ít nhưng mà đạt cái
chất lượng cao. Rồi từ cái sức tỉnh của chúng ta ngày càng cao thì chúng ta lại
tăng dần lên, thì chúng ta sẽ thấy rất là tỉnh. Thà là mình tu ít mà lúc bấy
giờ mình tập trung vào cái gì đó, lúc đó cái sức tỉnh mình rất cao, và cái sức
tỉnh rất cao thì nó mới có cái tri kiến giải thoát nó mới phóng ra, nó mới tu
định vô lậu, nó mới quét sạch những cái lậu hoặc. Còn cái sức tỉnh mình nó thấp
quá, mình ngồi lại mình dùng cái niệm vô lậu để mình quán xét thì mình ngồi
hoài mà nó không phóng ra được, đó là cái sức tỉnh mình không có nên cái tri
kiến giải thoát không phóng ra được. Khi mình chưa có đủ sức tỉnh thì mình dùng
cái tri kiến, tri kiến tức là cái sự hiểu biết vay mượn của người khác để rồi
mình suy xét, quán xét từ đầu đến chân của mình bằng cách này bằng cách khác.
Còn khi mà chúng ta đã có sức tỉnh thức rồi thì chúng ta không cần vay mượn của
ai hết mà chúng ta chỉ cần đặt cái niệm trước mặt: chẳng hạn niệm thân bất tịnh
hay niệm thân vô thường vô ngã. Chúng ta đặt cái niệm trước mặt, chúng ta ngồi
im lặng một chút xíu, tự ở trong tâm chúng ta phóng ra tri kiến giải thoát, từ
đó nó quán xét, thấy rất rõ tất cả những cái bất tịnh như thế nào, tự nó nó
quán sát không vay mượn của ai hết, mà nó thông suốt như vậy đó gọi là tri kiến
giải thoát.
Nhưng vì sức tỉnh thức
của chúng ta không có, cho nên nó ngồi lại ỳ đó mà nó không phóng ra được, bởi
vì tỉnh thức không cao. Vì vậy khi chúng ta tu tập chừng 5 phút hay 10 phút mà
cái sức cao rồi thì tự chúng ta ngồi im lặng là nó phóng ra liền. Bởi vì người
ta nói Định thì có Tuệ. Mà mình chưa có đủ cái Định, tức là cái tỉnh thức, cái
sức tỉnh thức tức là cái sức định chứ đâu phải là cái gì, nó là cái sức nhiếp
tâm của chúng ta, cho nên chúng ta chưa có nó thì cái Tuệ nó không phóng ra
được, mà nó không phóng ra được thì tri kiến giải thoát không có, mà tri kiến
giải thoát không có thì tâm ta còn biết bao nhiêu cái ràng buộc dính mắc. Cho
nên chúng ta muốn giải quyết sự ràng buộc dính mắc của lậu hoặc này thì chúng
ta phải dùng cái tri kiến, tức là cái vay mượn, cái hiểu biết của kinh điển,
của quý thầy dạy bảo để chúng ta hiểu được cái bất tịnh như thế nào, cái vô
thường như thế nào để chúng ta quán xét theo sự hiểu biết của vay mượn, chứ
không thể có tri kiến giải thoát được.
Đó thì sự tu tập nó phải
rõ như vậy, chứ nếu mà không biết thì chúng ta ngồi ỳ đó hoài mà tri kiến giải
thoát nó không phóng ra, rồi cứ nương theo hơi thở, tưởng đó là mình thiền
định, chứ thực ra mình bị thất niệm. Mình thất niệm là vì cái định này nó không
thể nào ở trong hơi thở được. Rồi mình tưởng là ở trong hơi thở nó không có
vọng tưởng, đó là mình không có thất niệm; nhưng thật sự là mình tu lầm lạc,
rồi mình tu sang qua một pháp khác, mà mình không có chủ động điều khiển
được, tức là thiếu sự làm chủ.
Nhưng quý vị chú ý, ở
đây hướng tâm chứ không phải niệm câu pháp hướng. Cái phần này chúng ta cũng
phải rõ là chúng ta hướng tâm, chứ không phải là niệm, để không rồi chúng ta cứ
liên miên mà niệm thì nó cũng lại trật. Ở đây hướng tâm chứ không phải niệm câu
pháp hướng. Vì hướng tâm phải có cách khoảng thời gian câu hướng này với câu
hướng kia, nghĩa là chúng ta phải có khoảng thời gian.
Ví dụ bây giờ chúng ta
hướng này: tôi quét sân tôi biết tôi quét
sân.
Thì không thể nào chúng
ta lặp lại một lần thứ 2 kế tiếp nữa: tôi
quét sân tôi biết tôi quét sân. Rồi nói: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân… Mình lặp lia lịa vậy gọi là
niệm. Còn mình nhắc một câu: tôi quét sân
tôi biết tôi quét sân, rồi chúng ta cứ tự nhiên mà chúng ta quét, để cho
cái sức ý thức của chúng ta tập trung nơi hành động chánh niệm của nó đang
quét. Thì một khoảng cách độ chừng 3 phút, 5 phút chúng ta lại nhắc một lần
nữa. Thì cứ có khoảng cách để tâm nó lặng theo hành động tập trung mà không cần
tác ý ra nữa, do đó gọi là pháp hướng. Còn nếu mà cứ liên tục niệm thì đó là
niệm pháp hướng chứ không phải là hướng tâm.
Cho nên chúng ta ở đây
cũng phải hiểu được cái điều này. Người mới tu họ không biết thì cứ tu liên tục
lúc nào cũng nhắc. Thí dụ đi kinh hành thì họ cứ nhắc: tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành, rồi lúc nữa họ cũng
nhắc liên tục nữa, thì cái đó là cái sai, cho nên khi mình nhắc rồi thì phải
tuần tự để cho có thời gian lắng tâm xuống trong cái Chánh niệm, trong cái hành
động đi của chúng ta. Thì khi mà lắng tâm trong cái khoảng thời gian đó, cái
sức tỉnh nó tăng lên, đồng thời thời gian mà lắng tâm đó nó sẽ bị vơi đi, tức
là sức tập trung của chúng ta, dần dần ý thức nó chưa quen cho nên nó không có
tập trung chặt vào đó được, cho nên nó lơi lỏng. Nó lơi lỏng thì chúng ta lại
dùng 1 cái pháp, câu hướng nữa, lại nhắc nó một lần nữa: tôi đi kinh hành tôi
biết tôi đi kinh hành. Thì từ đó nó lại tập trung vào hành động đi nữa, thì nó
lại tỉnh thức cao hơn nữa, do đó chúng ta cứ tiếp tục như vậy thì cái sức tỉnh
nó lại càng cao.
Nhưng mà rồi nó có
trường hợp, là tại vì quý thầy đã tu tập cái hơi thở nhiều quá thay vì chúng ta
chưa nên tập hơi thở trong cái lúc này, mà phải tu các định khác. Bây giờ nó
lại quen hơi thở, vừa đi mà lại vừa biết hơi thở. Cho nên Phật dạy tất cả các
pháp chúng ta đều có thể nương hơi thở mà tập được, do đó chúng ta nhắc câu ám
thị, nó vừa là có hơi thở vừa có chánh niệm tỉnh thức của hành động chúng ta đi
nữa. Thì: hơi thở vô tôi biết tôi thở vô, hơi thở ra tôi biết hơi thở ra. Hơi
thở vô tôi biết tôi đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đi kinh hành.
Đó là những câu nhắc để
lấy dùng hơi thở làm cho tập trung với hành động đi, chớ không phải tập trung
hơi thở. Nhưng tại vì cái tâm của mình nó đã quen với hơi thở nên vừa đi mà vừa
biết hơi thở, cho nên mình nhắc: hơi thở
vô tôi biết tôi đang đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đang đi kinh hành. Mình
dùng cái hơi thở mình tập trung xuống hành động liền, nó làm cho mình tỉnh thức
ngay liền và đồng thời bỏ hơi thở được. Đó là những cách có thể nương hơi thở
mà tu vào cái Chánh niệm tỉnh thức để cho chúng ta càng tỉnh thức hơn.
Đó, đó là những cách
thức tu tập để chúng ta tu chánh niệm tỉnh thức cho nó đạt được cái mức tỉnh
thức cao. Vì hướng tâm phải có cái khoảng thời gian, ít ra câu hướng này với
câu hướng kia, người mới tu 30 phút mới hướng một lần, còn người tu lâu có sức
tỉnh thức nhiều, một phút hoặc 2 phút hướng một lần. Nghĩa là người mới tu mà
tu 30 phút thì họ phải tu trong 1 phút họ phải hướng 1 lần hoặc 2 phút họ hướng
1 lần. Còn người tu lâu thì khoảng 5 phút hay 10 phút họ mới hướng 1 lần. Nếu
mà thấy sức tỉnh thức của mình mà nó luôn luôn tập trung ở hành động đi của
mình thì lúc bấy giờ lâu lâu mình mới hướng, mà thấy nó lờ mờ, nó bị hàng hai (nó
nương hơi thở hoặc nó bị âm thanh tác động, nó đi hàng hai trong đó) thì ngay
đó mình phải hướng liền cho nó gom lại, chớ không khéo nó lờ mờ. Nó đi hàng hai
là nó lờ mờ rồi đó, nó không tập trung được rồi, nó không tỉnh thức đâu.
Cho nên khi đó người tu
thì người ta thiện xảo lắm, người ta phải khéo léo ở trong sự tu tập. Người ta
biết cái tâm của mình lúc ấy nó lờ mờ rồi, người ta biết lúc bấy giờ nó rất
tỉnh rồi. Mà lúc lờ mờ người ta biết, cho nên người ta rất khéo léo dùng pháp
hướng là cái chỗ lờ mờ, chỗ tỉnh thì người ta không dùng pháp hướng nữa để cho
nó tập trung ở trong sức tỉnh. Mà nó lờ mờ thì ngay đó chúng ta phải dùng pháp
hướng để phá liền để cho ý thức của chúng ta nó gom lại cho nó mạnh. Biết rõ
như vậy thì chúng ta tu rất là có kết quả. Ở đây không được nhắc liền miệng, vì
nhắc liền miệng là niệm câu trạch pháp hướng, như vậy sẽ tu sai, sau này sẽ rơi
vào định tưởng, lệch đường tu giải thoát của đạo Phật. Nghĩa là rơi vào những
định tưởng, niệm riết rồi nó sẽ rơi vào những định tưởng, nó làm cho chúng ta
có sự an lạc trong khi niệm mà nó không có đúng cái pháp hướng.
___
Nguồn: Băng số 15 - Giáo án đường lối tu tập đạo Phật - Trưởng lão Thích Thông Lạc
Link pháp âm: http://hoctapdaoduc.blogspot.com/2013/12/phap-thoai-mp3-cua-uc-truong-lao-thich.html
No comments:
Post a Comment