Phần giới
luật quý Phật tử đã học tập xong và hứa khả sẽ giữ gìn trọn vẹn trong một ngày
đêm. Còn đây là phần tu tập pháp hành trong ngày Thọ Bát Quan Trai. Pháp hành
trong ngày Thọ Bát Quan Trai gồm có bốn pháp:
1-
Định Chánh Niệm Tĩnh Giác.
2-
Định Vô Lậu.
3-
Định Niệm Hơi Thở.
4-
Định Sáng Suốt.
Xin
quý Phật tử hãy lắng nghe Thầy sẽ giảng dạy để biết cách tu tập trong ngày Thọ
Bát Quan Trai cho đúng chánh pháp của Phật. Như quý Phật tử đã biết: Đạo Phật
là đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng
sanh. Vì thế, giới luật là hàng đầu trong các pháp tu tập, cho nên quý Phật tử
phải giữ gìn tám giới nghiêm túc không được vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trong
tám giới này. Nhờ có giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì tu tập bốn pháp định
này mới có hiệu quả. Do đó, quý Phật tử nên biết giới luật là pháp môn quan
trọng nhất cho con đường tu tập để tìm cầu sự giải thoát.
--o0o--
Pháp tu tập
thứ nhất: “Định Chánh Niệm Tĩnh Giác”. Pháp tu tập Định Chánh Niệm Tĩnh Giác
gồm có hai phần:
1-
Tu tập tỉnh thức trên bước đi.
2-
Tu tập tỉnh thức trong những hành
động sống hằng ngày.
1/ TU TẬP
TỈNH THỨC TRÊN BƯỚC ĐI
Gồm có bốn giai đoạn tu tập:
GIAI
ĐOẠN THỨ NHẤT: Đi kinh hành như người vô sự. Trước
khi đi quý Phật tử nên tác ý như sau: “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh
hành”. Khi chân trái bước tôi đếm một; chân phải bước tôi đếm hai; chân
trái bước tôi đếm ba; chân phải bước tôi đếm bốn; chân trái bước tôi đếm năm.
Và như vậy mỗi chân bước tôi đếm 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17,
18, 19, 20. Đúng hai mươi bước tôi đứng lại tác ý: “Đi kinh hành tôi biết
tôi đi kinh hành”. Rồi tiếp tục đi lại như cũ. Và cứ tu tập như vậy cho
đến khi đứng 30 phút mới xả nghỉ.
GIAI
ĐOẠN THỨ HAI: Đi
kinh hành như giai đoạn thứ nhất, nhưng đi đúng 20 bước đứng lại tác ý câu: “Hít
vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” tác ý xong liền hít
vô thở ra 5 hơi thở. Khi hít thở 5 hơi thở xong liền tác ý: “Đi kinh hành
tôi biết tôi đang đi kinh hành”.
Tác ý xong lại bước đi kinh hành như trước. Đi kinh hành 20 bước
cộng năm hơi thở suốt thời gian 30 phút xả nghỉ. Đó là tu tập Chánh Niệm Tĩnh
Giác giai đoạn thứ hai.
GIAI
ĐOẠN THỨ BA: Đi
kinh hành như giai đoạn thứ nhất, nhưng đi đúng 20 bước đứng lại rồi ngồi xuống
theo kiểu bán già hoặc kiết già, giữ lưng thẳng, mắt nhìn chóp mũi, tác ý: “Hít
vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” tác ý xong liền hít
vô thở ra 5 hơi thở. Khi hít thở 5 hơi thở xong đứng dậy liền tác ý: “Đi
kinh hành tôi biết tôi đang đi kinh hành”, tác ý xong lại bước đi
kinh hành như trước. Đi kinh hành 20 bước cộng thêm tư thế ngồi hít thở 5 hơi
thở. Tu tập như vậy suốt thời gian 30 phút rồi xả nghỉ. Đó là tu tập Chánh Niệm
Tĩnh Giác giai đoạn thứ ba.
GIAI
ĐOẠN THỨ TƯ: Đi
kinh hành theo pháp môn THÂN HÀNH
NIỆM. Pháp môn THÂN HÀNH
NIỆM là
một phương pháp tu tập tỉnh thức thứ tư. Phương pháp này tu tập theo lệnh
truyền của pháp môn như lý tác ý.
Xin
quý Phật tử lưu ý: Đây là một mẫu truyền lệnh của pháp môn Thân Hành Niệm:
Co
tay trái!
Để
sau lưng!
Co
tay mặt!
Để
sau lưng!
Chân
trái bước!
Nhón
gót (lên)!
Dở
chân (lên)!
Đưa
(chân) tới!
Hạ
chân xuống!
Hạ
gót xuống!
Chân
mặt bước!
Nhón
gót (lên)!
Dở
chân (lên)!
Đưa
(chân) tới!
Hạ
chân xuống!
Hạ
gót xuống!
Chân
trái bước!...
.
. . . . . . . . . . . . .
Đến
bước thứ 20 thì chỉ bước tới vừa phải để khi hạ gót xuống thì hai mũi bàn chân
cùng trên một hàng ngang.
Khi
đứng lại xong tiếp tục truyền lệnh cách thức ngồi:
Tay
mặt buông xuống!
Tay
trái buông xuống!
Tay
trái đưa thẳng ngang mặt!
Tay
mặt đưa thẳng ngang mặt!
Hai
chân co ngồi xuống!
Tay
trái chống đất sau lưng!
Tay
mặt chống đất sau lưng!
Hạ
thân ngồi xuống!
Chân
mặt duỗi ra!
Chân
trái duỗi ra!
Hai
tay sửa áo!
Chân
trái thu về!
Tay
mặt bắt chân trái kéo vô! (kiết
già)
Chân
mặt thu về!
Tay
trái bắt chân mặt kéo vô! (kiết
già)
Tay
trái chống gối trái!
Tay
mặt chống gối mặt!
Lưng
thẳng!
Hít
thở năm hơi!
Hít!
Thở!
(Một)
Hít!
Thở!
(hai)
Hít!
Thở!
(ba)
Hít!
Thở!
(bốn)
Hít!
Thở!
(năm)
Tay
trái chống gối trái!
Tay
mặt chống gối mặt!
Tay
trái chống đất sau lưng!
Tay
mặt chống đất sau lưng!
Chân
mặt duỗi ra!
Chân
trái duỗi ra!
Chân
mặt co thu về!
Chân
trái co thu về!
Ngồi
lên!
Tay
trái chống gối trái!
Tay
mặt chống gối mặt!
Đứng
lên!
Khi
đứng lên xong quý Phật tử tiếp tục đi 20 bước vòng thứ 2... và cứ tu tập như
vậy cho đúng 30 phút mới xả nghỉ.
Pháp
môn Thân Hành Niệm là giai đoạn tu tập tỉnh thức thứ tư có công năng tỉnh thức
rất cao, phá hôn trầm, thùy miên vô ký rất tuyệt vời. Pháp môn này quý Phật tử còn nhiều gia duyên tâm ly dục ly ác chưa tròn đủ thì
không nên tu tập nhiều vì tu tập nhiều sẽ rơi vào các loại tưởng thì rất nguy
hiểm, sẽ rối loạn thần kinh thành tẩu hoả nhập ma, đó là một loại bệnh
điên. Xin quý Phật tử lưu ý: Chỉ tu tập 30 phút mà thôi!
--o0o--
2/ TU TẬP TỈNH THỨC TRONG MỌI HÀNH ĐỘNG
Tu tập tỉnh thức trong những hành động sống hằng
ngày, quý Phật tử phải nhớ tu tập trọn một
ngày một đêm Thọ Bát Quan Trai. Nhất là phải chuyên cần tu tập Chánh Niệm Tĩnh
Giác Định bằng mọi hành động ngoại của thân và câu hữu với pháp môn Tứ Chánh
Cần để ngăn các pháp ác và diệt trừ các pháp ác. Nghĩa là quý vị tu trong mỗi
hành động thân, khẩu, ý và làm tất cả mọi công việc đều tu tập được cả, như
quét sân, nấu cơm, lặt rau v.v.. Quý vị nên nhớ kỹ, phải dùng pháp hướng tâm để
tập tỉnh thức trong hành động.
Thí
dụ: khi đang quét sân thì quý vị hướng tâm (tác ý): “Quét sân, tôi biết
tôi đang quét sân”.
Khi
đang lặt rau thì quý vị hướng tâm (tác ý): “Lặt rau, tôi biết tôi đang
lặt rau”.
Khi
đang nấu cơm thì quý vị hướng tâm (tác ý): “Nấu cơm, tôi biết tôi đang nấu cơm”.
Đó
là quý vị đã tu tập tỉnh thức trong hành động quét sân, lặt rau, nấu cơm. Sau
đó thì quý vị dùng câu pháp hướng để xả tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình
trong hành động quét sân, lặt rau, nấu cơm thì quý Phật tử dùng ba chữ: “Quán
ly tham”.
Thí
dụ: Khi quý Phật tử đang quét sân mà muốn tu tập lìa xa tâm tham thì hãy nhắc
tâm: “Quán ly tham, tôi biết tôi đang quét sân”.
Khi
quý Phật tử đang lặt rau mà muốn tu tập lìa xa tâm tham thì hãy nhắc tâm: “Quán
ly tham, tôi biết tôi đang lặt rau”.
Khi
quý Phật tử đang nấu cơm mà muốn tu tập lìa xa tâm tham thì hãy nhắc tâm: “Quán
ly tham, tôi biết tôi đang nấu cơm”.
Với
tâm tham, sân, si, mạn, nghi quý Phật tử đều nương vào những hành động làm việc
hằng ngày của mình mà tu tập như vậy thì tâm sẽ ly dục ly ác trọn vẹn. Cho nên,
quý Phật tử làm việc gì đều có thể tu tập được cả. Thầy sẽ cho những câu ví dụ
sau đây:
“Quán
ly sân, tôi biết tôi đang quét sân”.
“Quán
tâm như đất, tôi biết tôi đang lặt rau”.
Hoặc
lúc đang đi:
“Quán
tâm ly tham, tôi biết tôi đang đi”.
“Quán
tâm ly sân, tôi biết tôi đang đi”.
Đó
là quý vị vừa xả tâm, vừa tỉnh thức trong hành động của mình.
“Quán
tâm vô thường tôi biết tôi đang nấu cơm”.
“Quán
tâm vô thường tôi biết tôi đang lặt rau”.
“Quán
tâm vô thường tôi biết tôi đang quét sân”.
“Quán
tâm vô thường tôi biết tôi đang đi”.
Xin
quý Phật tử lưu ý: Quý vị đang làm công việc gì thì quý vị hãy tỉnh thức ngay
trong hành động làm công việc đó, và quý vị luôn luôn kèm theo câu pháp hướng (vô
thường, khổ, vô ngã) để xả tâm tham, sân, si của mình. Đó là pháp tu xả
tâm trong thời gian tu tập thọ Bát Quan Trai.
Khi
đi kinh hành quý vị cũng tu tập như vậy:
“Quán
ly tham, tôi biết tôi đang đi kinh hành”.
“Quán
ly sân, tôi biết tôi đang đi kinh hành”.
“Quán
ly si, tôi biết tôi đang đi kinh hành”.
“Quán
tâm như đất, tôi biết tôi đang đi kinh hành”.
“Quán
tâm vô ngã, tôi biết tôi đang đi kinh hành”.
“Quán
thân vô thường, tôi biết tôi đang đi kinh hành”.
“Quán
thân vô ngã, tôi biết tôi đang đi kinh hành”.
Hoặc
làm tất cả mọi công việc, quý vị cũng có pháp hướng xả tâm (nhắc tâm theo công
việc ấy). Ví dụ khi đang nấu cơm thì: “Quán thân vô thường tôi biết tôi
đang nấu cơm” hay là: “Quán thân vô ngã tôi biết tôi đang nấu
cơm”.
Khi
đang lặt rau thì: “Quán tâm vô ngã tôi biết tôi đang lặt rau”. Hoặc “Quán pháp vô
ngã tôi biết tôi đang lặt rau”.
Đó
là vừa tu tập tỉnh thức trên Tứ Niệm Xứ: Thân, thọ, tâm, pháp trong từng hành
động, theo mọi công việc làm mà lại vừa xả tâm mình.
Trên
đây là pháp môn tu tập tỉnh thức trong mọi hành động câu hữu với pháp xả tâm ly
dục ly ác pháp để diệt ngã trong ngày Thọ Bát Quan Trai. Vì thế, quý Phật tử
phải tu tập nghiêm chỉnh. Chúc quý Phật tử tu tập viên mãn đạt được tâm thanh
thản, an lạc và vô sự.
--o0o--
Bây giờ quý Phật tử
tiếp tục tu tập pháp môn thứ hai ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ. Quý vị ngồi xuống,
ngồi kiết già (hoặc bán già), thẳng lưng, quay mặt vào vách, hai mắt nhìn xuống
chót mũi. Quý vị bắt đầu hít vào một hơi thở chậm, dài. Khi nào hít vào hết sức
thì quý vị lại thở ra cũng chậm, nhẹ và dài. Khi thở ra hết thì quý vị trở lại
hơi thở bình thường, kèm theo pháp hướng tâm: “Tôi thở, tôi biết tôi đang
thở”. Khi thở
đúng 5 hơi thở thì quý vị lại nhắc tâm: “Tôi thở, tôi biết tôi đang thở”. Rồi lại tiếp tục thở bình thường
như trên. Khi thấy hơi thở ra vào đều đều, tâm gom tại nhân trung thì quý vị
không cần phải nhắc câu: “Tôi thở, tôi biết tôi đang thở” nữa, mà
phải nhắc bằng câu khác để xả tâm mình trong khi đang thở.
Thí
dụ nhắc tâm bằng câu: “Quán ly tham, tôi biết tôi đang thở”, rồi
quý vị thở 5 hơi thở. Sau đó lại nhắc tâm: “Quán ly sân, tôi biết tôi
đang thở”. Rồi
thở tiếp 5 hơi, và nhắc tâm: “Quán ly si, tôi biết tôi đang thở”. Rồi quý vị cứ tiếp tục 5
hoặc 10 hơi thì một lần hướng tâm như sau:
“Quán
đoạn dứt tâm tham, tôi biết tôi đang thở”.
“Quán
đoạn dứt tâm sân, tôi biết tôi đang thở”.
“Quán
đoạn dứt tâm si, tôi biết tôi đang thở”.
Như
thế, cứ cách 5 hơi thở thì một lần hướng tâm (Đừng để cho một niệm khác xen vào trong khi ta thở và tác
ý).
Khi
tu tập định niệm hơi thở như vậy độ 10 phút thì quý vị xả nghỉ. Nếu quý vị có
sức ngồi tu tập bền lâu thì nên tu tập 30 phút rồi xả nghỉ. Suốt trong ngày đêm
Thọ Bát Quan Trai, quý vị cứ tu tập từng hành động, trong công việc làm, hay
lúc đi kinh hành, luôn luôn tu tập Định Niệm Hơi Thở kèm theo pháp hướng để xả
tâm thì tâm hồn quý vị sẽ được thanh thản.
Đây
là bài tham khảo thêm về Giới Niệm Hơi Thở Ra, Hơi Thở Vô để quý Phật tử nghiên
cứu. Pháp môn Giới Niệm Hơi Thở Ra, Hơi Thở Vô là một pháp môn mang lại lợi ích
rất lớn cho công cuộc chiến đấu với mặt trận sinh tử luân hồi của nhân quả.
--o0o--
Bắt
đầu học, tu tập và muốn đạt được một đời sống GIỚI HÀNH NIỆM HƠI THỞ RA, HƠI THỞ VÔ nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và
giới hành của nó. Vậy giới đức, giới hạnh và giới hành của giới hành niệm hơi
thở ra, hơi thở vô là gì?
Giới đức niệm hơi thở ra, hơi thở vô là những lời dạy đạo
đức về đời sống đạo đức của con người trong hơi thở tức là Chánh nghiệp.
Giới hạnh niệm hơi thở ra, hơi thở vô là những lời dạy về
Phạm hạnh tức là oai nghi tế hạnh thường thể hiện qua giới hành niệm hơi thở
ra, hơi thở vô như: nói, nín, tiếp giao với mọi người, v.v.. Những oai nghi tế
hạnh như vậy được gọi là Chánh nghiệp.
Trước khi muốn tu tập về giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở
vô thì các bạn hãy lắng nghe lời đức Phật dạy La Hầu La: “Này La Hầu La, hãy tu tập sự tu
tập về niệm hơi thở vô, hơi thở ra, làm cho sung mãn, nên được quả lớn, được
lợi ích lớn. Và này La Hầu La, thế nào là tu tập niệm hơi thở ra, hơi thở vô
làm cho sung mãn nên được quả lớn, được lợi ích?”. (KTB T329 KGIGLHL)
Ở đây lời dạy này có những danh từ khó hiểu như: làm cho
sung mãn, được quả lớn, được lợi ích lớn. Vậy làm cho sung mãn như thế nào?
Được quả lớn, được lợi ích lớn như thế nào?
Chữ sung mãn có nghĩa là đầy đủ, sung túc, tràn đầy, dư thừa
không thiếu hụt. Tóm lại, trước khi thực hiện nghĩa này thì phải tập an trú tâm
trọn vẹn trong hơi thở. An trú tâm trọn vẹn trong hơi thở tức là biết hơi thở
vô, hơi thở ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc, đó là làm cho
tràn đầy sung túc, dư thừa, không thiếu về niệm hơi thở.
Quả lớn là gì?
Quả lớn có nghĩa là kết quả to lớn của sự tu tập về hơi thở
vô, hơi thở ra. Quả lớn còn nghĩa là kết quả của sự tu tập đạt được sự giải
thoát một cách cụ thể rõ ràng, hay nói cách khác là làm chủ được sanh, già,
bệnh, chết, tức là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Được lợi ích lớn là gì?
Lợi ích lớn có bốn nghĩa là:
1-
Đời sống được an vui, hạnh phúc
không có ác pháp nào làm giao động được tâm, tâm luôn luôn thanh thản, an lạc
và vô sự, thường thản nhiên trước mọi dục lạc thế gian, mọi sự cám dỗ vật chất,
mọi ác pháp, v.v..
2-
Làm chủ được tuổi già có nghĩa là
khỏe mạnh quắc thước như một thanh niên cường tráng.
3-
Làm chủ được mọi bệnh tật không sợ
ốm đau như người thường tục.
4-
Làm chủ được sự sống chết, muốn sống
thì sống, muốn chết thì chết.
5-
Chấm dứt tái sanh luân hồi.
Trên đây là năm điều lợi ích lớn của kiếp sống làm người do
tu tập hơi thở vô, hơi thở ra.
Vậy trước khi muốn tu tập giới hành hơi thở vô, hơi thở ra
thì chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Ở đây này La Hầu La, vị Tỳ kheo
đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết già,
lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt, tĩnh giác, vị ấy thở vô, vị ấy thở
ra”.
Đọc đoạn kinh này chúng ta cần lưu ý những từ sau đây: khu
rừng, gốc cây, ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú chánh niệm
trước mặt, tĩnh giác.
Vậy khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống là địa điểm để tu tập,
có nghĩa là tìm nơi chốn yên tịnh, vắng vẻ để tu tập hơi thở vô, hơi thở ra.
Nếu địa điểm không tìm được như trên đức Phật đã dạy, thì sự tu tập về hơi thở
vô hơi thở ra rất khó khăn. Các Phật tử lưu ý những lời dạy này vì nó rất cần
thiết cho sự tu tập của quý vị, xin quý vị nên nhớ kỹ. Quý vị đừng cho rằng bất
cứ nơi đâu tu cũng được thì đức Phật dạy điều này để làm gì? Có quan trọng đức
Phật mới dạy như vậy. Đừng nghe theo những nhà Đại thừa và Thiền tông. Họ chỉ
nói suông:
“Bất cứ chỗ nào tu cũng được, tu trong bốn oai nghi, tu trong công việc làm”,
lời nói này đi ngược lại lời dạy của đức Phật.
Ngồi kiết già là gì?
Ngồi kiết già là tư thế ngồi xếp bằng tréo hai chân đan vào
nhau. Đó là tư thế ngồi của người tu thiền định. Tư thế ngồi này rất vững chắc
để thân tâm dễ gom vào một đối tượng thân hành nội (hơi thở).
Ví dụ: Đi, đứng, nằm ngồi, co tay, duỗi chân, ngước nhìn,
nói nín, ăn, nhai nuốt, hơi thở vô, hơi thở ra, v.v.. đều là thân hành, nhưng
phải rõ tất cả thân hành của thân là thân hành ngoại chỉ trừ có hơi thở là thân
hành nội. Như vậy, chúng ta phải hiểu rõ mới có thể tu tập được.
An trú chánh niệm là gì?
An trú chánh niệm là ở yên ổn trong niệm chân chánh. Niệm
chân chánh là gì?
Trong đạo Phật có bốn chỗ niệm chân chánh:
1/
Niệm thân.
2/
Niệm thọ.
3/
Niệm tâm.
4/
Niệm pháp.
Chữ chánh niệm ở đây gồm chung có 4 niệm, như vậy an trú
chánh niệm tức là an trú trong bốn niệm. Vậy an trú bốn niệm một lần có được
không? An trú bốn niệm một lần là tu tập Tứ Niệm Xứ. Cho nên, Tứ Niệm Xứ còn
gọi là Chánh Niệm.
Ngoài bốn niệm: thân, thọ, tâm, pháp còn có niệm nào khác
nữa không?
Trên thân gồm có hai niệm:
1- Thân hành niệm nội.
2- Thân hành niệm ngoại.
Trên thọ gồm có ba niệm:
1- Niệm thọ lạc.
2- Niệm thọ khổ.
3- Niệm thọ bất lạc bất khổ.
Trên tâm gồm có hai niệm:
1-
Niệm tịnh.
2- Niệm động.
Trên pháp gồm có hai niệm:
1-
Niệm thiện.
2-
Niệm ác.
Ở đây, bài pháp này đức Phật đang dạy La Hầu La về hơi thở
vô, hơi thở ra, vì thế chánh niệm ở đây phải hiểu là thân hành niệm nội, tức là
hơi thở vô, hơi thở ra. Vậy an trú chánh niệm trước mặt tức là an trú hơi thở
vô, hơi thở ra ở trước mặt.
Tĩnh giác nghĩa là gì? Tĩnh giác nghĩa là biết rất rõ ràng
từng chi tiết nhỏ, biết rất kỹ lưỡng, biết không có mờ mịt một chút xíu nào cả.
Ở đây chúng ta nên hiểu đức Phật dạy La Hầu La phải biết rất kỹ từng hơi thở
vô, từng hơi thở ra.
Người giữ gìn giới hành hơi thở vô hơi thở ra có nghĩa là tu
tập an trú trong hơi thở vô, hơi thở ra phải biết rất rõ ràng, không được để
quên, để mất, để mờ mịt hơi thở vô ra.
Vì tâm chúng ta hay quên (vô ký) nên phải dùng pháp tác ý
dẫn tâm tĩnh giác mãi mãi làm cho tâm sáng suốt thấy biết rất rõ ràng từng hơi
thở vô, ra: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. An trú được trong hơi thở là đạt được
căn bản về phương pháp tu Định Niệm Hơi Thở.
Để thực hiện giới hành này chúng ta nên theo lời đức Phật
dạy Tôn Giả La Hầu La mà tu tập như sau:
Trước tiên chúng ta tìm nơi vắng vẻ, yên tịnh, rồi tập ngồi
kiết già lưng thẳng, sau khi tập ngồi kiết già lưng thẳng được có nghĩa là ngồi
tréo chân mà không thấy khó chịu, hoặc đau hoặc tê chân chừng nửa tiếng đồng
hồ. Khi ngồi được nửa tiếng đồng hồ yên ổn thì mới đặt niệm hơi thở vô, hơi thở
ra trước mặt và tác ý như sau: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết
tôi thở ra”. Khi tác ý xong
câu này ta truyền lệnh: “Hít”, truyền lệnh xong ta mới hít vô, tĩnh giác rất kỹ theo hơi thở vô.
Sau khi hơi thở vô hết ta truyền lệnh “Thở”, khi truyền lệnh xong ta mới thở ra và phải sáng suốt tĩnh giác
theo hơi thở ra. Cứ như vậy mà tu tập 1 phút. Nếu tu tập 1 phút sức tĩnh giác
rất tốt không quên hơi thở nào, có nghĩa là trong một phút không bao giờ ta
quên hơi thở, mà cũng có nghĩa là trong một phút không có một niệm vọng tưởng
nào xen vào được.
Nếu một phút tu tập tốt, ta tăng lên 2 phút, rồi 3 phút, rồi
4, 5 phút. Sau khi đạt được 5 phút rất tĩnh giác hơi thở ra vô, ta tăng 6, 7,
8, 9, 10. Sau khi tăng lên 10 phút ta soát xét xem lại toàn bộ cơ thể có xảy ra
trạng thái gì không ?
Ví dụ: nặng đầu, nặng mặt, choáng váng chóng mặt, v.v.. Khi
có những trạng thái như vậy xảy ra thì nên báo cho Thầy biết để kịp thời sửa
lại cho đúng cách tu tập để không bị ức chế tâm khiến thân không rối loạn cơ
bắp và thần kinh, v.v..
Trong giới hành về hơi thở vô, hơi thở ra có 19 đề mục tu
tập. Mười chín đề mục Định Niệm Hơi Thở
được chia ra làm hai phần:
1-
Bảy đề mục đầu nhiếp tâm và an trú
tâm
2-
Mười hai đề mục sau đẩy lùi các ác pháp.
--o0o--
BẢY ĐỀ MỤC
ĐẦU
NHIẾP TÂM VÀ AN TRÚ TÂM
NHIẾP TÂM VÀ AN TRÚ TÂM
1- “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Đó là đề mục thứ nhất để tu tập nhiếp tâm trong hơi thở.
Đề mục này tập trung tâm tại nhân trung giữa hai lỗ mũi, biết hơi thở ra vô tại
chỗ đó, chứ không được theo hơi thở vô lồng ngực và ngược lại hơi thở từ lồng
ngực chạy ra. Nếu các bạn nhiếp tâm được 30’ mà không quên hơi thở tức là không
có tạp niệm xen vào thì đó là các bạn đã tu tập viên mãn đề mục thứ nhất. Khi
tu tập viên mãn đề mục thứ nhất thì quý Phật tử nên xin Thầy kiểm tra hơi thở
để xin tu tập đề mục thứ hai.
2- “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tối biết tôi
thở ra dài”. Đề mục này có mục đích là làm giảm
nhẹ nơi tập trung tâm. Theo Phật giáo không được tập trung tâm một chỗ, vì tập
trung tâm một chỗ rất nguy hiểm có thể làm rối loạn các cơ và thần kinh gây ra
bệnh tưởng.
Khi tu tập đến đề mục này thì chú ý vào hơi thở chậm và nhẹ,
vì khi tác ý như vậy thì hơi thở bắt đầu thở chậm và nhẹ một cách tự nhiên, chứ
không dùng các cơ vận dụng thở chậm và nhẹ. Dùng các cơ vận dụng thở chậm và
nhẹ là sai. Ở đây chỉ cần tác ý hơi thở chậm nhẹ thì tự động hơi thở sẽ thở
chậm nhẹ, lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần tác ý theo đề mục đã trạch pháp câu: “Hít
vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”.
3- “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn, thở ra ngắn tôi biết
tôi thở ra ngắn”. Đó là đề mục thứ ba của Định Niệm
Hơi Thở, khi chúng ta muốn hơi thở ngắn thì tác ý câu này: “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn, thở ra
ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn”. Đây là cách điều khiển hơi thở
ngắn bằng pháp như lý tác ý. Xin các bạn lưu ý! Do tu tập về hơi thở nên phải
làm chủ được hơi thở. Muốn thở dài thì hơi thở dài, muốn hơi thở ngắn thì hơi
thở ngắn. Khi nào chúng ta thở dài thở ngắn mà không thấy có sự rối loạn hô hấp
đó là chúng ta đã thành công làm chủ hơi thở. Riêng về phần tu tập hơi thở thì
nên tu tập hơi thở bình thường là tốt nhất, không nên vận dụng hơi thở dài hoặc
hơi thở ngắn.
4- “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân
tôi biết tôi thở ra”. Đây là
đề mục dời tụ điểm không còn thấy hơi thở ra vô tại nhân trung nữa. Mỗi lần hít
thở cảm nhận sự rung động toàn thân. Trong pháp Thân Hành Niệm dạy: “Cảm
giác thân hành tôi biết tôi hít vô, cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra”.
Chỗ này tu tập khi nào từng hơi thở cảm nhận được sự rung động của toàn thân
thì đó là kết quả của đề mục này.
5- “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành
tôi biết tôi thở ra”. Đây là một đề mục rất quan trọng trong
sự tu tập mà đức Phật thường nhắc nhở: “Nhiếp tâm và an trú tâm”.
Từ đề mục thứ nhất đến đề mục thứ tư là những đề mục nhiếp tâm, còn đề mục thứ
năm này là đề mục an trú tâm, chứ không còn là đề mục nhiếp tâm nữa. Đề mục này
rất quan trọng và lợi ích to lớn trong việc đẩy lui các chướng ngại pháp trên
thân, thọ, tâm và pháp. Đề mục này tu xong cũng giống như người lính đánh trận
có chiến hào, vì thế tất cả cảm thọ không thể tấn công được. Đây là phương pháp
làm chủ bệnh mà Tứ Niệm Xứ thường dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục
tham ưu”, “Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu”, “Trên thọ quán thọ để khắc
phục tham ưu”, “Trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu”. Quý Phật tử nên lưu ý đề
mục này nó rất quan trọng trong sự tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
6- “Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô, cảm giác tâm hành
tôi biết tôi thở ra”. Đề mục này là để hướng dẫn chúng ta
ý thức nhận xét sự hoạt động của tâm theo từng hơi thở ra vô chứ không phải
biết hơi thở ra vô bình thường. Do đó, mỗi lần hít vô hay thở ra chúng ta đều
lắng nghe tâm đang có niệm hay không niệm. Khi tu tập lắng nghe tâm từng hơi
thở mà thấy tâm lặng lẽ bất động không một niệm xen vào trong suốt 30’ hay 1
giờ là chúng ta đã đạt được kết quả tu tập về đề mục này.
7- “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi
biết tôi thở ra”. Khi tâm chúng ta đang bị động mà
không có cách nào làm cho nó an được, chúng ta sử dụng ngay đề mục này bằng
phương pháp như lý tác ý: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh
tâm hành tôi biết tôi thở”. Cứ mỗi lần tác ý như vậy là chúng ta cảm
nhận như tâm chúng ta có một sự an ổn trong im lặng và mỗi lần hơi thở ra vô là
tràn ngập sự an ổn của thân và tâm. Nếu kết quả này kéo dài từ một giờ đến 2
giờ là chúng ta đã hoàn thành đề mục này.
--o0o--
MƯỜI HAI
ĐỀ MỤC LY DỤC LY ÁC PHÁP
8- “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô, quán thân vô
thường tôi biết tôi thở ra”.
Khi thân tâm được an trú trong hơi thở vô, hơi thở ra thì suốt trong thời gian
tu tập hơi thở quý vị thỉnh thoảng tác ý câu này: “Quán thân vô thường
tôi biết tôi hít vô, quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra”. Nương
vào hơi thở vô ra và tác ý như vậy thì giúp cho quý Phật tử có một nội lực mạnh
mẽ thân vô thường thật sự. Từ đó thân kiến kiết sử bị đoạn dứt. Đây là tu tập
Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ.
9- “Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô, quán thọ vô thường
tôi biết tôi thở ra”. Đề mục này tu tập như đề mục thứ
tám quán thân vô thường để nhấm nhuần thọ vô thường thật sự khiến khi thân có
bệnh tật khổ đau tâm không dao động sợ hãi. Đó là mục đích của đề mục này. Vậy
muốn tâm bất động trước các cảm thọ thì đề mục này phải cần siêng năng tu tập
không được biếng trễ. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ.
10- “Quán
tâm vô thường tôi biết tôi hít vô, quán tâm vô thường tôi biết tôi thở ra”. Người ở ngoài đời cũng như các tôn giáo khác trong đó có
Đại thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Pháp Hoa Tông, Mật Tông, v.v.. đều cho tâm
này là linh hồn, là Phật tánh, là Tánh Không, là Chơn như, là trí tuệ Bát Nhã,
là bản thể của vạn hữu, v.v.. Đó là một sự hiểu biết lầm lạc bằng ảo tưởng, tâm
là một xứ trong Tứ Niệm Xứ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Cho nên, quán tâm vô thường
cũng như quán thọ hay quán thân vô thường vậy.
Hằng
ngày quán tâm vô thường để chúng ta không bị kiến chấp Linh hồn, Phật tánh
thường hằng của tà giáo ngoại đạo. Và luôn nhờ có quán tâm vô thường nên từng
tâm niệm sanh khởi chúng ta không bị dính mắc và chấp đắm. Đây là tu tập Định
Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ.
11- “Quán
các pháp vô thường tôi biết tôi hít vô, quán các pháp vô thường tôi biết tôi
thở ra”. Đây là một đề mục tu tập hơi thở trong pháp môn Tứ Niệm Xứ
để thấm nhuần các pháp đều vô thường, nhờ thế các pháp đến với chúng ta là
chúng ta đều buông xả sạch, vì chúng ta hiểu:
“Buông
xuống đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ
giữ làm chi có ích gì?
Thở
ra chẳng lại còn chi nữa,
Các
pháp vô thường buông xuống đi!
Đề
mục này siêng năng tu tập khi đã thấm nhuần thì có ích lợi rất lớn, đó là nhìn
các pháp mà không dính mắc, không chấp trước. Đây là tu tập Định Niệm Hơi Thở
câu hữu với Tứ Niệm Xứ.
12- “Quán
ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Theo lời đức Phật dạy chỉ cần từ bỏ được tâm tham là nhập
vào Niết Bàn, chấm dứt tái sanh luân hồi. Như vậy hằng ngày quý Phật tử thường
tác ý câu: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi
thở ra”. Khi tâm
tham đã được ly ra thì tâm chúng ta luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm
thanh thản, an lạc và vô sự là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
13- “Quán
ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra”. Nếu một tâm sân đã được từ bỏ sạch thì Niết Bàn ở tại đó.
Chỉ cần chuyên tu tập một đề mục này từ bỏ được tâm sân thì con đường tu của
Phật giáo đâu mấy khó khăn. Phải không quý Phật tử? Đức Phật đã đem lời dạy này
ra bảo đảm với chúng ta: “Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A
La Hán nói đến. Và tôi đã được nghe. Này các Tỳ kheo hãy từ bỏ một pháp, Ta bảo
đảm cho các ngươi không đi đến lại (tái sanh). Thế nào là một pháp? Sân, này
các Tỳ kheo là một pháp các ngươi hãy từ bỏ. Ta bảo đảm cho các ngươi không đi
tái sanh. Thế Tôn nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến”.
Theo lời dạy trên đây chúng ta chỉ cần tu tập một đề mục này cũng đủ chứng đạo
quả giải thoát, chấm dứt tái sanh luân hồi chỉ trong một đời này mà thôi.
14- “Quán
từ bỏ tâm tham tôi biết tôi hít vô, quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi thở ra”. Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán ly
tham…”, nhưng
ở đây “Từ bỏ” mạnh hơn. Vậy khi tu tập ly được tâm tham thì chúng
ta lại kế tiếp tu tập từ bỏ tâm tham thì lại thấm nhuần nhiều hơn và tâm tham
sẽ bị diệt trừ.
15- “Quán
từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô, quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi thở ra”. Đề mục này tu tập cũng giống như đề mục “Quán ly sân”
nhưng ở đây nó mạnh hơn là do “Quán từ bỏ tâm sân”. Nếu người nào bền chí tu
tập, chỉ một đề mục này cũng đủ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân
hồi.
16- “Quán
đoạn diệt tâm tham tôi biết tôi biết tôi hít vô, quán đoạn diệt tâm tham tôi
biết tôi thở ra”. Đề mục tu tập này có một sự quyết
liệt mạnh mẽ hơn những đề mục trên vì “đoạn diệt tâm tham”. Ở trên chỉ có “ly” và
“từ bỏ” mà thôi. Tại sao chỉ có tâm tham mà phải ba đề mục tu tập cẩn
thận như vậy?
Kính
thưa quý Phật tử! Tâm tham dục là một nguyên nhân sinh ra muôn thứ khổ đau của
loài người, vì thế nó rất quan trọng đệ nhất trong các pháp ác. Cho nên, tu tập
tới đề mục này quý Phật tử phải có sự quyết định mạnh mẽ không thể lôi thôi với
tâm tham dục được.
17- “Quán
đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô, quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi thở
ra”. Đề mục này cũng có một sự quyết định cuộc đời tu hành của
mình được hay không được. Nếu một người tu hành mà tâm sân còn thì có nghĩa lý
gì là một tu sĩ. Phải không quý Phật tử?
Sân
là một tính rất xấu và cực ác, lúc sân nó có thể giết người làm bất cứ một việc
gì, lúc sân, nó cũng không sợ bất cứ một thứ gì. Biết sự nguy hiểm của tâm sân
như vậy, nên chúng ta quyết liệt đoạn diệt tâm sân tận gốc không còn để một
chút xíu trong tâm. Phải chấm dứt ngay liền. Chính dứt được tâm sân là Niết bàn
ngay liền tại đây, đâu có xa gì?
18- “Quán
tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”. Đây là đề mục phá tâm si. Quý Phật tử phải cố gắng tu tập
với đề mục tu tập này cho nhuần nhuyễn. Khi tu tập đã nhuần nhuyễn thì không
bao giờ có hôn trầm thùy miên và vô ký đến thăm quý vị. Nếu quý Phật tử tu tập
chưa nhuần nhuyễn thì quý vị sẽ bị hôn trầm thùy miên đánh gục. Hôn trầm thùy
miên là một pháp cực ác đối với những người hành theo Phật giáo.
19- “Với
tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô, với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra”. Đây là đề mục cuối cùng của Định Niệm Hơi Thở, khi tất cả
các đề mục trên đều đã hoàn tất viên mãn thì đến đề mục này là tâm bất động
hoàn toàn có nghĩa là tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm ở
trạng thái không phóng dật. Xưa đức Phật đã xác định cho chúng ta biết trạng
thái này là cứu cánh Niết Bàn: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không
phóng dật, muôn pháp lành cũng đều nơi đó sinh ra”.
--o0o--
Sau
khi xả nghỉ để cơ thể lấy lại bình thường thì quý vị tu tập Định Vô Lậu. Định
Vô Lậu chuyên nhất vào sự tư duy, suy xét hay gọi là quán. Quán những sự việc
xảy ra trong đời sống hàng ngày của quý Phật tử. Khi quán xét thấy trong tâm
mình đang mắc phải một pháp nào đó khiến cho tâm bất an và bất toại nguyện, thì
quý vị hãy cố gắng dùng pháp hướng mà xả nó đi. Hãy dùng pháp hướng tâm ra lệnh
để làm cho tâm bất toại nguyện, ưu phiền đó rời khỏi tâm quý vị. Thí dụ, khi
đang giận ai thì ta phải dùng pháp hướng như sau: “Quán ly sân tôi biết
tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra” Với pháp hướng như thế quý
vị thở vào, thở ra 5 hơi chậm và nhẹ thì quý vị sẽ thấy cơn giận bắt đầu giảm
cường độ. Tiếp theo quý vị có thể dùng câu pháp hướng: “Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít
vô, quán từ bỏ tâm sân, tôi biết tôi thở ra”. Thở năm lần rồi lặp lại câu pháp hướng ấy và
thở 5 hơi nữa thì ta sẽ thấy cơn giận đã giảm đi quá nửa.
Ví
dụ 2: Khi thân bị bệnh đau đầu, quý Phật tử muốn xả lậu hoặc đau đầu này thì
phải dùng đề mục thứ năm của Định Niệm Hơi Thở bằng câu tác ý: “An
tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”.
Nhiếp tâm và an trú tâm trong hơi thở và tác ý như vậy thì bệnh đau đầu sẽ hết.
Bệnh đau đầu hết tức là vô lậu.
Khi
tâm đã vô lậu thì quý Phật tử nên đưa ra một đề tài khác như: Nhân quả, các
pháp vô thường, thân vô thường hay thân bất tịnh, thực phẩm bất tịnh, v.v.. Quý
vị tư duy quán xét những pháp này cho thấu suốt. Tư duy quán xét những pháp này
cho thấu suốt đó là tu tập Định Vô Lậu. Còn những ví dụ trên là quý Phật tử áp
dụng vào các pháp môn khác để tâm được vô lậu. Đấy cũng là tu tập Định Vô Lậu
Quý Phật tử hãy thực hành pháp quán Vô Lậu theo
những đề tài đã được dạy trong lớp Chánh Kiến dưới đây:
□ Đường đi
nhân quả.
□ Nhân quả
thảo mộc.
□ Nhân quả
con người qua:
o Thân hành
o Khẩu hành
o Ý hành.
o Ái ngữ.
o Giới thiệu đạo đức nhân bản -
nhân quả.
□ Thực phẩm
bất tịnh.
□ Thân bất
tịnh.
□ Các pháp
vô thường.
□ Tứ vô
lượng tâm:
o Tâm từ vô lượng
o Tâm bi vô lượng
o Tâm hỷ vô lượng
o Tâm xả vô lượng
Những đề tài có thể được triển khai thêm nhưng chưa
được học:
□ Tất cả
các loài hữu tình do các món ăn mà an trú.
□ Tất cả
các loài hữu tình do các hành mà an trú.
□ Năm triền
cái.
□ Ít muốn
biết đủ.
□ Danh và
sắc.
□ Tàm và
quý.
□ Ba ác
hạnh: Thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh.
□ Ba thiện
hạnh: Thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh, ý thiện hạnh.
□ Năm tâm
hoang vu.
□ Năm hạ
phần kiết sử.
□ Năm
thượng phần kiết sử.
□ . . .
Muốn
tu học Định Vô Lậu để thông suốt những gì cần thông suốt như lời đức Phật dạy
thì quý vị hãy đăng ký vào lớp học Chánh Kiến sắp mở lớp dạy ngày gần đây.
Quý
Phật tử hãy đọc bài mẫu của tu sinh tại tu viện Chơn Như về Định Vô Lậu:
--o0o—
(Bài làm QUÁN VÔ
LẬU,
ngày 17-1-2006)
Bài quán thực phẩm bất tịnh đầy đủ,
khi áp dụng bài quán này vào đời sống thì không còn ai thích ăn ngon.
|
NHẬP ĐỀ
Độ
sau 10 giờ sáng, có việc đi ngang qua ngả tư đường N.và B., mùi thịt nướng thơm
phức lồng lộng trong gió từ trong nhà hàng ăn bình dân M.T. như lời mời mọc giờ
cơm trưa tới phải ghé vào gọi một tô bún thịt nướng hay một dĩa cơm sườn nướng
là một trong hai món nổi tiếng của nhà hàng. Giá bình dân, thức ăn ngon thơm
nóng nên thực khách thường xuyên ngồi khắp các bàn, nhiều khi phải chờ một lát
mới có bàn trống.
Thực
khách đâu biết rằng món thịt nướng đó nhà hàng đã chế biến như thế nào, từ loại
thịt có phẩm chất ra sao? Xin thưa từ
loại thịt hơi ôi một tí nghĩa là có mùi hơi nặng của thịt ngày hôm trước, không
còn mùi thơm của thịt tươi vừa mới hạ từ con thịt trong ngày. Gia vị đậm đà cay
nồng chua ngọt mặn nên át đi mùi nặng của thịt. Đưa vào lửa nóng, những giọt mỡ
chảy ra mang theo gia vị rơi trên than lửa bốc khói, đỏ lửa ngọn xông háp vào
thịt làm cháy sơ ngoài mặt tạo màu vàng ướt mỡ. Thực khách không còn nhận ra mùi
thịt ôi mà chỉ còn mùi thơm thịt nướng nóng. Lại chính loại thịt ôi đó làm cho
thịt nướng ở đây có vị đặc biệt hơn các nơi khác.
Cho
nên, vị ngon ở miệng làm ta thường quên đi phẩm chất của nguyên vật liệu được
dùng. Đó là bình thường của thực phẩm. Nhưng còn những điểm khác nói lên những
khía cạnh bất tịnh của thực phẩm mà chỉ khi đối diện với các khâu sản xuất, chế
biến, nuôi trồng ta mới có hiểu biết đầy đủ. Nhờ hiểu biết ta mới tư duy đúng
để thấy nên tập cho ta có thói quen ăn uống như thế nào và nên ăn uống thức gì.
ĐẶC TÍNH, ĐẶC TƯỚNG
Trước
tiên thức ăn được chế biến từ những loại thịt cá, rau quả cây trái, vừa thu
hoạch trên ao hồ, sông, biển, nông trại, vườn rừng. Đây là những thức ăn tươi.
Và sự chế biến sai khác nhau tùy thuộc khẩu vị từng vùng, từng dân tộc; nói
chung là tùy theo thói quen trong ăn uống.
Tuy
từ những nguyên vật liệu thịt cá tươi nhưng đâu phải không bất tịnh. Bạn dùng
tay trần cầm một con cá lên, nước nhờn từ thân cá dính vào tay, nếu không dùng
nước sạch và xà bông rửa liền thì mùi tanh hôi cá đeo theo tay và thỉnh thoảng
bốc hơi theo mồ hôi tay lên mũi bạn và những người chung quanh. Mùi tanh cá lại
càng nồng nặc khi máu cá cùng nước các loại trong thân cá bị cắt xẻ chảy ra.
Dao thớt không được rửa kỹ phơi khô thì mùi tanh máu cá không dứt. Ngay cả khi
được chiên xào nấu nướng mùi tanh hôi cũng không bao giờ dứt, dù cho thêm bất
cứ gia vị tiêu ớt cay nồng nào cũng không tiêu trừ được. Chiên thì có mùi cá
chiên, kho thì có mùi cá kho, nướng thì mùi cá nướng.
Tôi
còn nhớ một hôm đến thăm một gia đình nọ, vừa bước vào nhà đã ngửi thấy mùi
tanh hôi của cá. Được chủ nhà mời nước, vừa cầm ly nước đưa lên tới miệng thì
tôi đã nhẹ nhàng để xuống vì mùi nồng tanh cá ập vào mũi bắt lợm. Đi tới khu
bếp thì mùi tanh càng nồng nặc hơn mặc dù lúc đó không có nấu nướng gì. Tường
vách i ỉ rít rát, đó là do hơi bốc lên từ nồi chảo, mang mùi cá bám vào tường
làm thành như một lớp sơn. Tôi không hiểu gia đình này có lối kho nấu như thế
nào mà nồng nặc mùi cá như thế. Chắc hẳn họ ăn cá chiên hơi nhiều nên mỡ cá bay
đi và bám vào khắp nhà: tường vách, màn cửa, bàn ghế, ly chén,... Người nhà lại
làm biếng không lau chùi tẩy rửa nhà cửa hằng tuần, cũng không biết dùng những
loại hơi khắc chế nên lâu ngày mới tạo nên mùi hôi hám tanh cá như thế. May là
nhà có cửa lưới chứ không thì ruồi lằn sẽ sống từng đàn từng lũ trong nhà này.
Một lần tới thăm mà sợ suốt đời.
Cá
tươi mà đã thấy khó kham nhẫn mùi huống nữa là khô, là mắm, cho nên Cao Bá Quát
chê thơ người khác dở bằng hình ảnh “con thuyền Nghệ An” nặc mùi khắm của mắm
cá. Đi vào chợ, mũi bạn phân biệt rất rõ bạn đang đến từng khu vực buôn bán nào
dù giả như bạn chơi trò bịt mắt, nhắm mắt mà đi. Khu vực bán mắm, bao nhiêu
loại mắm thi đua bốc mùi bay quyện vào không khí, nào là mắm ruốc, mắm tôm, mắm
cá đồng, mắm cá biển,... người ăn mắm được thì khen thơm, người không ăn được
thì phải chạy lộn trở ra và thở nhiều hơi thật sâu trong khí trời cho thoát hết
mùi mắm.
Mắm,
đúng nghĩa chỉ là cá chết sình ươn trong muối thì làm sao không hôi mùi? Càng
hôi (mùi mắm) mới là mắm ngon chứ! Dĩ nhiên mùi thối của súc vật chết sình thì
không giống mùi mắm chút nào đối với người quen ăn mắm, nhưng hỏi một người
không từng ăn bất cứ thứ mắm nào thì tất cả đều chỉ là hôi thối, không thể ngửi
nổi chứ đừng nói là ăn (trái sầu riêng mà chưa từng ăn lần nào thì không ai cho
đó là mùi thơm sầu riêng!).
Có
thể sơ khởi có mắm là do sự giao thông khó khăn, người ta chỉ di chuyển bằng
thuyền bè, ghe, ngựa hay đi bộ, nên mỗi khi ngư dân đánh bắt được nhiều tôm cá,
không tiêu thụ hết trong ngày ở buổi chợ của địa phương, họ mới nghĩ ra cách
làm chậm sình ươn bằng cách ướp muối vào. Thế rồi cá ươn muối mặn được làm thức
ăn trong những lúc trời giông, mưa bão, biển động không ra khơi được. Hoặc nếu
trong vùng đồng bằng mùa khô hạn, cá gom về vùng trũng, người ta thu hoạch quá
nhiều nên phải ướp muối làm mắm hay phơi khô. Thế rồi từ đó mắm được tiêu thụ
và biến chế ra nhiều thứ. Mắm trở thành thói quen của khẩu vị của từng địa
phương. Mắm, khô được đưa sâu vào nội
địa, đại lục.
Vậy
thì khi cá tươi có thì hà cớ gì lại chọn ăn mắm hôi như thế?
Này!
Bạn hãy nhìn kỹ hơn vào tô mắm! Bạn thấy gì không? Bạn có thấy trên mặt mắm nổi
lên những bọt giống bất kỳ thức ăn thiu nào không? Bạn có thấy có cái gì nhúc
nhích chăng? Đó là giòi mắm đấy. Bây giờ nó còn nhỏ, bạn hãy cất tô mắm vào tủ
lưới chỉ vài ngày thì chúng sẽ lớn bằng đầu đũa, bấy giờ dọn lên mâm, bạn có
dám ăn không? Vớt hết chúng đi rồi dọn lên, bạn không thấy gì thì bạn mới ăn
bình thường mà còn nhận xét ngon dở nữa! Ngạn ngữ nói “Ăn mắm mút giòi” để chỉ tính hà tiện, tính chắt mót của những
người một là quá nghèo khổ, hai là người bản tính quá tằn tiện.
Bạn
có ăn được ruồi lằng không? Giòi là tiền thân của ruồi lằng, chúng sống trong
mắm, ăn mắm rồi xí vào trong mắm, thế mà chúng ta ăn được sao, ăn con giòi và
ăn luôn phân của chúng! Hãy tác ý thật nhiều câu sau đây thì bạn sẽ hết còn
thích mắm: “Mắm hôi thối lắm. Ta không
nên ăn các loại mắm con hay mắm nước”.
Cá
phơi khô cũng chẳng hơn gì cá mắm. Cá khô cũng có mùi khắm nồng nặc. Khô dòn
thì hôi theo khô dòn, còn ĩ, còn ũ thì hôi khắm mùi ĩ, mùi ũ. Còn giòi thì khỏi
nói, con lớn con nhỏ bò nghinh ngang, luồn lách trong các khe nức khe chẻ còn
ươn ướt. Chúng ăn, chúng rúc rĩa. Ruồi lằn bu đậu chỗ này chỗ kia, chúng ăn,
chúng hút, rồi xí vào, rồi đẻ lên từng đống trứng, từng đống giòi. Mua về ta
kho, ta nấu, ta nướng cho có mùi lửa rồi ăn. Thật là bất tịnh hết chỗ nói. Cá
con nhỏ có thể phơi khô được trong một hai ngày nắng chứ cá lớn như cá sặc, cá
vồ, cá hố, cá lóc,... không thể khô nhanh được thì không thể không bị sình ươn
thối.
Ăn
những thức cá ươn thối như thế là ta đã trở
về sống đời
sống của thời ăn lông ở lỗ. Nhưng thời đó là thời còn thiếu văn minh,
thiếu thốn đủ mọi thứ, trình độ vệ sinh trong ăn uống không có, con người mới
sống theo điều kiện đó, chứ ngày nay mà còn giữ cách thức ăn uống thô sơ thời
xưa sao.
Một
hình ảnh trong một chương trình thời sự gây ấn tượng kinh khiếp khi tôi thấy
một thổ dân Úc trên đường xuyên sa mạc đã lấy tay vốc nước trong bụng xác một
con bò chết khô sình lâu ngày mà uống. Hãy tưởng tượng nước đó có những gì, có
mùi gì? Khiếp không tưởng nổi! Nhưng trường hợp này được bào chữa là tình cảnh
túng cùng ở trong sa mạc, và cũng có thể họ đã quen với vài loại thức ăn có mùi
đậm đặc gần giống với nước trong bụng bò chết sình này (cũng như một số món mắm
ăn của vài dân tộc ít người trên vùng cao nguyên), và người này chưa mấy văn
minh như người trong thành phố.
Nếu
bạn đi về vùng quê, hình ảnh quen thuộc của những ô vuông nho nhỏ che kín sơ
sài nửa chừng trên cuối chiếc cầu làm bằng hai thân cây đặt nằm ngang ở mương
rộng hay hồ nhỏ mà gần như nhà nào cũng có. Đó là mương nuôi cá tra, cá vồ là
những loại cá phổ thông ở vùng đồng bằng Cửu Long. Thức ăn của cá chính là
những gì thải ra từ đường dưới của người trong nhà hay các nhà chung quanh mỗi
sáng. Mỡ và thịt ở bụng các cá này màu vàng ngậy. Bạn nên nhớ kỹ khi kho nấu
các loại cá này, dù còn tươi hay đã phơi khô, hãy nhớ đừng bao giờ bỏ thêm
gừng, bằng không thì chỉ đem đổ thôi vì cái mùi hôi đó hiện ra, không thể đưa
vào miệng được, và khi ăn bạn đừng hình dung lại lúc bạn đang ngồi trên cái cầu
kia!!!
Vậy
ta hãy tác ý câu này cho thật nhiều, thay vì mắm, bây giờ ta thay bằng cá khô “Cá khô mang rất nhiều giòi và trứng ruồi,
nó là cá ươn thúi. Ta không nên ăn các thức ăn cá phơi khô”; “Chỉ có người bán khai mới ăn các loại cá
sình thúi, nó mất vệ sinh lắm. Ta chấm dứt ăn các loại cá mắm khô”; “Ăn những thức ăn sình thúi thì ta cũng bị
nhiễm sự bất tịnh toàn thân tâm và hơi thở”.
Còn
thịt bò, thịt heo, thịt gà vịt thì sao?
Thịt
bò thì hôi tanh mùi bò; thịt heo hôi tanh mùi heo, mùi xon heo nọc; thịt gà,
thịt vịt hôi tanh mùi gà vịt. Không có một loại thịt nào mà không hôi tanh, hôi
thối của loại thịt đó.
Thịt
bò buổi sáng còn đỏ màu tươi, đến chiều đã bốc tanh hôi mùi ôi thối, màu thì đã
chuyển sang đen bầm, tái nhợt. Tất cả các loại thịt đều tanh hôi nên ruồi lằn
rất ưa, là nơi lí tưởng để chúng đẻ trứng vào. Thịt đang còn trên thớt, đang ở
trong quầy mà ruồi lằn đã bám vào từng đám, đẻ trứng từng chùm, từng ổ nên chỉ
trong vài ngày là giòi lúc nhúc nở ra rúc rỉa. Thịt bốc mùi thối, nước tanh hôi
chảy ra.
Chưa
nấu nướng thì đã là ổ chứa mọi loại vi khuẩn, vi trùng, căn gốc bệnh đau. Để
không nấu chín trong vài ngày thì thối không ngửi được, dù nấu chín rồi thì
cũng bị thiu bị thối bốc mùi hôi hám không còn có thể ăn được. Máu, thịt, gân,
xương, thành phần nào cũng đều có bản chất sình ươn thối rữa giống nhau.
Thịt
còn mang mầm từ trường bất tịnh. Khi một
con vật bị giết, nó chịu đựng bao đau khổ, sợ hãi, oán hận. Những con bò, con
trâu trên đường tới lò sát sinh chúng đã cảm nhận được giờ chết sắp tới nên có
nhiều con đã khóc, mặt đầy nước mắt. Những con gà bị quặt cánh, đè chân, kéo cổ
nhổ lông, mắt chúng trợn trừng khiếp hãi oán hận nhìn người giết nó. Con ếch
chấp tay lạy van cầu tha mạng vẫn bị chặt đầu. Con cá bị đập đầu vùng vẫy khổ
đau trên thớt. Tâm lí đó của con vật bị giết chuyển thành từ trường bất tịnh
thấm nhiễm trong toàn bộ xác con vật.
Người đồ tể cầm dao cắt cổ, dùng búa đập đầu, cạo lông, xẻ thịt phân
loại thân phần đều truyền vào xác con vật những từ trường hung bạo, giết hại.
Cho nên, khi ăn thịt, những từ trường bất tịnh chuyển qua thấm vào thể chất và
tinh thần người ăn, vì vậy tâm lí của những người lấy thịt làm thức ăn rất là
hung bạo mà cũng thường sợ hãi, khiếp đảm vu vơ, nóng nảy bồn chồn bất nhất, cơ
thể không an tịnh lâu dài được nên họ không thể ngồi yên bất động lâu, thường
xuyên nhúc nhích xoay xở.
Vậy
các loại thịt bản chất của chúng, thực tướng của chúng thật là bất tịnh, không
đáng cho ta quý trọng chúng, không cần thiết phải có trong bữa ăn thường ngày.
Ta hãy tác ý: “Bản chất các loại thịt rất
bất tịnh, rất hôi hám, ta không nên ưa thích, không nên ăn”.
DUYÊN CHUYỂN ĐỔI
Ngày
trước, các gia súc gia cầm được nuôi lớn, sống trong thiên nhiên, thức ăn của
chúng hoàn toàn tự nhiên kiếm được trong đồng nội, đồng bằng, cao nguyên, rừng
núi. Loài ăn cỏ cây lá chỉ ăn cỏ cây lá
tươi từ cỏ từ cây, loài ăn côn trùng chỉ bới móc tìm côn trùng trong phân,
trong rác, trong đất, trong lá, trong cỏ. Dù có được nuôi lớn trong chuồng như
heo thì thức ăn của chúng cũng được làm thành theo cách thông thường từ những
vật liệu tự nhiên thiên nhiên như cám, bèo, dây khoai, củ mì, trái bí,... nhưng
thịt của chúng vẫn là bất tịnh, vẫn tanh hôi, vẫn thối, thiu, vẫn mang rất
nhiều mầm bệnh đau.
Các
loại gia súc gia cầm ngày nay được nuôi lớn bằng nhiều thức ăn chế biến trong
kỹ nghệ. Bò là giống ăn cỏ từ xưa nay, thế mà thức ăn cho nó ngày nay người ta
đã thêm những loại bột xương, bột thịt cho chúng mau lớn, mau tăng trọng. Điều
kiện ăn uống thay đổi nên thịt chúng đổi thay theo, chứa rất nhiều yếu tố biến
dị. Bệnh bò điên là một trong rất nhiều biến dị đó; tương lai còn nhiều biến dị
chuyển thành những chứng bệnh bất trị lây lan sang người tiêu dùng, như bệnh bò
điên là do ăn uống các loại thịt này. Bệnh từ thịt gà chuyển sang người làm
thành bệnh chết người nhanh chóng đã gây sợ hãi không ít cho sự tồn vong của
con người. Đó là một số yếu tố bất tịnh của thịt các loại.
Chúng
lại bị nhốt giam cầm trong những chuồng trại, không còn được tự do đi lại;
không còn được tự do hoạt động nên tinh thần bực dọc, tù túng, buồn phiền, sầu
khổ; không còn được phút giây nào tươi vui thoải mái tung tăng chạy nhảy đùa
giỡn với nhau. Tâm trạng đó của con vật chuyển thành từ trường bất thường bệnh
hoạn ở toàn thân con vật.
Sự
bất tịnh của các loại thịt còn được hiểu như sự nhiễm độc ngay khi con vật còn
sống hay cả trong thời gian hạ thịt mổ xẻ con vật. Nấu nướng chế biến ướp thêm
hành tỏi, tiêu ớt, sả gừng... để cho có thêm mùi màu là cơ hội thúc đẩy quá
trình nhiễm độc nhanh và đều nên người ăn mới ngộ độc. Sự ngộ độc có khả năng
làm chết hằng chục, hằng trăm người một cách dễ dàng. Báo chí thỉnh thoảng đưa
tin thực khách đám cưới, đám tiệc bị ngộ độc thức ăn phải chở vào nhà thương
cấp cứu; chở tới kịp thì được cứu sống còn, chở tới chậm thì phải mua quan tài
đem chôn.
Nhớ
cảnh những người ngộ độc do ăn uống đó, ta nên tác ý: “Thịt các loại gia súc gia cầm chứa rất nhiều yếu tố bất tịnh, ta hãy
bớt ăn thịt lại, ta không nên ăn thịt nữa”.
Thức
ăn từ các loại thịt động vật đều mang bản chất bất tịnh giống nhau, không có
thịt từ loài động vật nào là thanh tịnh hết. Vì sao? Vì thức ăn của chúng đều
có căn gốc bất tịnh hết, chúng ăn các loài động vật nhỏ hơn, rồi loài động vật
nhỏ đó ăn những loài động vật nhỏ hơn nữa, cứ thế mà loài lớn này ăn loài nhỏ
kia. Có khi loài nhỏ làm thức ăn cho loài lớn đó còn sống, có khi thây đã chết
sình thối của các loài là thức ăn cho nhiều loài khác, vậy thì làm sao thanh tịnh
được.
Con
người muốn trở thành con người tiến hoá phải thoát ra khỏi thói quen ăn thịt là
bản chất của loài thú không tiến hoá. Thói quen ăn thịt là một nghiệp lực mạnh
mẽ ràng buộc chúng sanh quay cuồng trong vòng luân hồi sanh tử không có lối
thoát. Ăn thịt nhau thì phải sanh ra lại để cùng nhau ăn thịt nhau.
Cho
nên, con người muốn thoát khỏi bản năng ăn thịt như các loài cầm thú thì phải
tập luyện cho mình huân thành thói quen, giải trừ yếu tố di truyền thói ăn thịt
bằng cách quyết định trong hai tuần hay một tuần chọn một vài ngày chỉ ăn toàn
rau, trái, củ, hạt. Nhất định không đụng tới một miếng thịt nào, miếng cá nào.
Đứng
trên quan điểm bất tịnh thì ngay cả rau, trái, củ, hạt cũng chẳng phải thanh
tịnh gì. Muốn có sản phẩm rau trái củ hạt tốt thì nông gia phải bón phân, xới
đất. Phân bón là gì? Đó là phân hữu cơ và phân vô cơ.
Phân
vô cơ được sản xuất trong các xí nghiệp công nghệ nông nghiệp từ những loại hoá
chất N, P, K,... được kết hợp mà khi cho vào đất, phun lên cây sẽ tự phân hủy
thành những chất kích thích rất mạnh các chức năng phát triển của cây. Tuỳ theo
loại sản phẩm cây phải cho mà người ta bón loại phân vô cơ nào. Cây thì cho lá,
cây cho trái, cho củ, cho hạt. Việc dùng phân vô cơ có thành phần trọng yếu nào
là nhắm vào các đối tượng nào sẽ thu hoạch. Phân vô cơ thường chỉ có hiệu lực
trong một mùa vụ hay trong một năm và sau đó thường làm đất bị thói quen dùng
phân vô cơ cho những mùa vụ tới; phân vô cơ phối hợp với cỏ cây mục và độ ẩm
lại sanh những loài côn trùng mới phá hại cây trồng. Thuốc trừ sâu rầy được
phát minh, được dùng tới là một bất tịnh khác.
Còn
phân hữu cơ là phân của gia súc gia cầm và xác cá tôm nghêu sò, các phần loại
bỏ từ sinh vật không dùng làm thức ăn cho người, đã được chế biến để khi rải
xuống đất sẽ nhanh chóng chuyển thành gần như đất mùn. Nếu không gia thêm phân
vô cơ thì phân hữu cơ sẽ làm cho đất tăng thêm mầu mỡ trong nhiều mùa, nhiều
năm sau đó.
Khi
đất được bón phân như thế thì cây trồng sẽ thu hút dưỡng chất có trong phân lên
nuôi cây ra lá, ra hoa, kết trái, sanh hạt, tạo củ. Đã là phân thì làm sao
thanh tịnh được, vậy thì khi cây có lá, hoa, trái, hạt, củ dĩ nhiên là phải bất
tịnh theo. Phần củ là phần nằm trong đất, tiếp cận với phân, chung quanh nó là
phân, có thể nào phân không thẩm thấu vào trong củ. Ta thu hoạch, ta nấu ăn, đó
không phải là ta đang ăn thức ăn có nhiễm phân? Do từ phân? Vậy có thanh tịnh
chăng? Cái gì khuất mắt thì ta không biết nên không có cảm tưởng dơ hôi. Mùi
hôi của phân trở thành mùi thơm của cây, lá, hoa, trái, hạt, củ và ta thích thú
trong ăn uống, mê say trong ăn uống. Quả thật con người còn quá vô minh, chưa
văn minh.
Đồ
ăn chưa kịp nấu thì hư thối; nấu nướng xong để vài hôm thì thiu, thì thối, vậy
bản chất nó là bất tịnh. Có ai dám ăn đồ ăn để nguội thiu sau khi nấu nướng vài
ba ngày? Để một tuần thì lên mốc lên meo vàng, đỏ, đen; quậy lên thì nhầy nhụa
bốc mùi xú, phải đem đổ bỏ đi, đem chôn lấp, vật chứa giữ nó cũng hôi không
kém.
Sau
khi chế biến, sau khi nấu nướng, thức ăn được soạn ra dĩa, ra tô, đặt vào mâm,
bày lên bàn, bốc mùi thơm trong gia vị, trông thấy đẹp mắt, ưa nhìn, muốn ăn,
ăn thấy ngon miệng, ăn không muốn thôi. Tất cả những ưa thích quyến rũ đó có
còn chăng sau khi miếng ăn được nuốt khỏi cổ, vào bao tử, xuống ruột non, ruột
già, và sau khi được tống xuất ra ngoài?
Khoan
nói tới khi được tống xuất khỏi hậu môn, chỉ ngay khi ai đó cho thức ăn vào
miệng, nhai vài cái rồi nhả ra thì người này có ăn lại miếng ăn đó được chăng
hay thấy nó bắt ghê, thấy nó là ô uế, bất tịnh rồi; huống nữa là khi đã vào bao
tử, tiêu hoá trong ruột.
Vào
lúc những thức đã ăn còn trong ruột mà nó đã có mùi hôi thối khó ngửi thay còn
nói gì khi đã tống xuất khỏi ruột bằng đường cửa dưới đó. Mổ bụng một con gà,
mổ bụng con heo, con bò hay khi giải phẫu ở bụng người nào thì mùi xú uế bốc
lên. Rạch một đường dao vào ruột già, chất bầy nhầy trong đó hiện ra cùng với
mùi hôi nồng nặc khiến ta phải bịt mũi. Có ai ưa thích đứng gần bên người đang
làm cái việc phóng uế chăng? Nó là hậu thân của những món ăn thơm ngon, cao
lương mỹ vị thế mà giờ thì ai cũng ghê, cũng gớm, cho dù từ chính trong người
của mình đưa ra.
Không
ăn thì sẽ chết. Cảm giác đói làm bụng ta cồn cào, run tay, run chân, run bắn
người, bủn rủn mất sức, suy nhược toàn bộ sức lực, không còn tha thiết gì ngoài
nhu cầu khẩn thiết tìm một cái gì ăn nuốt được để cho vào bụng trấn áp cơn đói.
Đó là nguyên nhân chánh đáng để người ta đi tìm thực phẩm. Nhưng khi đã có thực
phẩm để không còn bị đói thì người ta lại tìm thực phẩm nào cho là ngon, là bổ
dưỡng, là quý hiếm, rồi họ thích thú trên cái đó, tạo cho nó những ý niệm giả
tạo cao sang, độc đáo. Thi đua nhau tìm món lạ, khuyến khích nhau sáng kiến chế
biến cầu kỳ, phức tạp. Cho nên, thực phẩm ngày càng nhiều món, chế biến nhiều
cách, phối hợp từ nhiều địa phương, tạo nên nhu cầu tiêu thụ có tính cách đua
đòi, khiến cho người người đều có quan niệm hưởng thụ cái ăn, chỉ biết ăn cho
nhiều món lạ cũng y như đi cho biết nhiều xứ. Đôi khi món ăn thật là bất tịnh,
vô đạo, bất nhân như óc khỉ sống, tiết canh máu tươi, bào thai thú sắp tới ngày
sanh, trứng gà vịt sắp tới ngày nở, con thú còn non ngày...
Trong
những năm đầu thập niên 1950, có một số người trước kia là những chức tước uy
quyền giàu có, họ đi du lịch Hồng Kông, Đài Loan, được bạn bè cũ chiêu đãi yến
tiệc, họ ăn suốt ngày trong vài ngày để bù những ngày thiếu thốn nhịn đói trong
khi đất nước chiến tranh. Ăn no, họ đi vào nhà xí thọc tay vào họng cho ói mửa
những thức họ vừa ăn vừa uống để trở về lại bàn ăn thêm những cái khác. Họ đúng
là những ngạ quỷ từ địa ngục đói mới lên. Mục đích họ sống chỉ để hưởng thụ cái
ăn. Con người họ, từ tinh thần đến vật thực, hoàn toàn là những thứ bất tịnh.
Loài
chó được con người thuần hoá từ lâu nhưng chưa đủ thời gian để triệt tiêu bản
chất ưa thích thức bất tịnh loại hôi loại thúi
Tuy nhiên trong những nước đã tiến bộ về vệ sinh, loài chó được nuôi
trong điều kiện thức ăn được tuyển lựa không còn bất tịnh thối thiu nữa thì bất
kỳ giống chó nào qua nhiều thế hệ cũng trở nên thông minh và hiền lành hơn tổ
tiên chúng rất nhiều.
Thức
ăn đều bất tịnh mà để nó trở nên thiu thối mới chế biến hay chế biến để nó trở
nên thối rữa thì càng bất tịnh hơn nhiều. Những dân vùng nào mà ưa thích thực
phẩm có nhiều những thức ăn thối ươn thiu hôi thì đó không phải là những xứ có
nền văn minh tiến bộ và những người nào chuyên ăn uống thức ăn này thì họ từ
thể chất đến tinh thần đều bất tịnh.
DUYÊN HỢP - DUYÊN TAN
Vậy
thì chính bản chất thức ăn, bất cứ thứ gì, thịt cá cũng như thực vật cũng đều
bất tịnh, hôi thối, rất hợp cho ta thường xuyên quán chiếu như thế để không còn
đắm chấp ưa thích ăn uống, hưởng thụ ăn uống, cho rằng đáng sống để ăn uống,
sống mà không hưởng thụ ăn uống thì uổng một đời người, không đáng sống, sống
phí phạm cuộc đời.
Không
thường xuyên quán chiếu để từ bỏ những quan niệm phàm phu sai lầm trên, chỉ
biết hưởng thụ vật chất trước mắt mà quên cái hại sau lưng, sống như vậy là vô
minh. Chính sống như vậy mới không đáng sống, không thông hiểu mục đích sống để
làm gì; sống như muôn loài vạn vật không có trí khôn, sống chỉ chạy theo bản
năng tự tồn thấp kém. Ăn cho nhiều, hưởng thụ cho lắm, hết cuộc đời xuôi tay đi
vào đường nghiệp lực, tái sanh vào hàng thấp kém.
Rõ
ràng môi trường nào thì sanh sinh vật và nếp sống nấy. Từ xa xưa chúng ta bị
sống trong môi trường sát hại nhau, ăn thịt lẫn nhau, môi trường với quy luật
sơ khai của bản năng “mạnh được, yếu thua” của loài thú vật, của côn trùng.
Chúng ta mặc nhiên chấp nhận và sống theo mà không mấy khi quán xét để nhận
thức, để sửa sai, để cải thiện, để thăng tiến.
Thói
quen là do huân tập. Ăn thịt là một thói quen do huân tập từ thuở con người sơ
khai để bây giờ con người cứ tưởng không ăn thịt thì sẽ bệnh, sẽ chết. Tại vì
do truyền thừa truyền thống từ tổ tiên loài người nên ai cũng cho thức ăn thịt
cá là ngon, đáng ưa thích, là bổ dưỡng, là cần thiết. Đó chẳng qua chỉ là ảo
tưởng, ảo giác.
Nếu
bây giờ chúng ta lật ngược quan niệm đó lại, cho rằng thịt của thú vật rất là
nguy hại, có rất nhiều bệnh tật cho người, chẳng có gì là ngon là béo bổ. Bỏ đi
tất cả các loại gia vị tạo vị ngon giả tạm, tạo mùi thơm giả tạm; bỏ đi tất cả
mọi cách thức chế biến nấu nướng được tạo thành thói quen trong ăn uống thịt
cá, mọi người cùng đưa ra quan niệm không ăn thịt cá là đáng sống, sống có ý
nghĩa, sống có mục đích bảo vệ sự sống của muôn loài, sống có mục đích thăng
tiến tâm linh, cuộc sống có cứu cánh giải thoát luân hồi tử sanh cho mình, giúp
người đạt như mình thì chắc chắn thói quen mới sẽ từ từ được tạo lập, được duy
trì, được bảo vệ.
Một
thời báo chí đã từng bàn thảo về vấn đề nên hay không con người bớt ăn thịt các
loại động vật mà nên ăn nhiều thức ăn thực vật. Quan điểm chống ăn thịt dựa
trên nhận xét của các nhà khoa học thấy rằng bộ tiêu hóa của các loài thú ăn
thịt có chiều dài ngắn hơn bộ tiêu hoá của các loài thú không ăn thịt. Con
người có bộ tiêu hoá dài đến 7 mét, dài nhất so với các loài thú khác, như vậy
con người phải là loài thú không ăn thịt tốt hơn vì với bộ tiêu hoá dài như thế
thì thức ăn có thịt phải di chuyển thời gian lâu trong cơ thể sẽ sanh nhiều độc
tố có hại. Hơn nữa bộ răng người bằng phẳng không nhọn và sắc bén như loài thú
ăn thịt.
Như
vậy, chắc chắn sự ăn uống của con người biến chuyển theo thói quen được huân
tập suốt chiều dài lịch sử con người có mặt. Bây giờ tập ngược trở lại, giảm
lần thịt cá trong mọi bữa ăn. Tất cả mọi người khắp toàn cầu đều sống không
phải để hưởng thụ ăn uống mà có mục đích đẹp là phát triển cộng đồng hướng về
đạo đức thương yêu sự sống của muôn loài, hạnh phúc của muôn loài.
Sống
không phải để hưởng thụ ăn uống còn có nghĩa giảm bớt thói ăn uống không chừng
mực, lúc nào cũng nhai nuốt được thì chưa đúng nghĩa mà phải quy sự ăn uống về
trong ba bữa ăn sáng - trưa - chiều, rồi giảm xuống còn sáng - chiều, chỉ hai
bữa ăn trong ngày. Không tổ chức đình đám để vui thú trong ăn uống.
Giảm
bớt bữa ăn đồng thời chuyển bữa ăn với thịt cá thành bữa ăn toàn rau cải, hoa
trái, củ hạt. Thực vật cũng hãy còn bất tịnh nhưng so với thực phẩm từ động vật
thì thanh tịnh hơn nhiều.
Hiện
giờ người Đài Loan, Hồng Kông đã chế biến nhiều loại thực phẩm, khô cũng như
tươi, không từ động vật mà từ thực vật, rất ngon miệng, có thể để lâu được,
nhưng phần lớn giả tạo mùi vị cùng hình thức của các món ăn từ động vật. Trong
thời gian có bệnh dịch từ thịt gà, nhiều nhà hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh đã
làm nhiều món ăn từ rau quả đậu các loại cũng rất ngon miệng, đẹp mắt nhưng vẫn
còn giả từ hình thức đến mùi vị con này, thịt nọ và giá còn cao, chỉ thích hợp
trong các buổi tiệc tùng, khó thể được phổ thông vào đại chúng.
Hiện
nay, kỹ thuật chế biến thức ăn theo thủ công từ thực vật khá phức tạp, nếu
không muốn nói là cầu kỳ để làm cho món ăn có nhiều vị khác biệt trong thành
phần, làm mất rất nhiều thì giờ. Cho nên, cần được các khoa học gia chuyên môn
về thức ăn nghiên cứu để một mặt tăng thêm mức độ dinh dưỡng, mặt khác đưa vào
công trình sản xuất công nghiệp làm cho nhẹ bớt lao động thủ công mà thực phẩm
ngày càng phong phú nhiều mặt hàng, giá thành rẻ và thành phần dinh dưỡng cao.
Cho đến về tương lai sau này, khi công việc được xem là bếp núc nội trợ hiện
nay được chuyển qua cho những xí nghiệp chuyên môn về thức ăn, để giải phóng
bớt thời giờ của con người trong việc nấu nướng thì lúc đó mới thật sự khởi đầu
giai đoạn thay đổi thói quen trong ăn uống được thực hiện. Và nếu được chỉ đạo
và quần chúng thay đổi ý thức trong ăn uống như nói ở đoạn trên thì cá thịt sẽ
không được dùng tới.
Biết
đâu vào tương lai gần đây thôi, với đà tiến nhanh của khoa học phục vụ đời
sống, chừng đó nhu cầu ăn uống phức tạp của mỗi người đều được đáp ứng qua mạng
lưới siêu thị đầy đủ sản phẩm chất lượng cao, phong phú nhiều loại hình khẩu vị
do nhiều hệ thống công nghệ thực phẩm cung cấp, mà chỉ toàn là thực phẩm có
được không do từ sự chết chóc của một sinh vật nào.
Điều
này không phải là sự mong cầu thiếu căn cứ. Mời bạn viếng qua một vòng xem các
quầy siêu thị bán thức ăn sáng sẽ thấy rất nhiều mặt hàng mới ngon bổ, dễ tiêu
dùng, tiện lợi và thích hợp cho mọi người theo từng hoàn cảnh. Nếu so với chỉ
10 năm trước thì người mua sắm ngày xưa không mất nhiều thì giờ chọn lựa mặt
hàng như ngày hôm nay. Tất cả đều là thức ăn sáng không thịt cá được trưng bày
đầy các kệ ở mọi siêu thị trong các thành phố các nước công nghiệp phát triển.
Ai cũng có thể tưởng tượng cuộc sống sẽ thay đổi nhanh đến mức độ phong phú nào
chỉ trong vài thập niên tới thôi, với đà tiến của khoa học hiện nay.
KẾT LUẬN
Tác
dụng hỗ tương giữa tinh thần và vật chất cho thấy tinh thần tiến hoá thì vật
chất thanh tịnh, khi vật chất thanh tịnh thì tinh thần tiến hoá. Nói rõ hơn một
vị Thánh thì sự ăn uống của vị này không còn như sự ăn uống của hàng phàm tục.
Ăn uống còn phàm tục thì không thể trở nên bậc Thánh nghĩa là tinh thần không
minh mẫn, không đầy đủ trí tuệ. Cho nên, muốn chuyển đổi từ phàm tục trở nên
gần với Thánh nhân thì sự ăn uống không thể không thay đổi.
Hiện
giờ sự ăn uống của nhân loại ở trong giai đoạn chạy theo thị dục, cái gì cũng
muốn cho vào miệng chẳng khác gì một đứa bé mới biết bò. Đứa bé hành động theo
vô thức của nghiệp lực còn nhân loại hành động theo ý thức bị chi phối bởi
nghiệp lực. Nghiệp lực cản trở tiến hóa, cho nên cần chuyển đổi nghiệp lực. Đã
biết thức ăn từ động vật bất tịnh hơn so với thức ăn từ thực vật, nhưng nhân
loại đang thích thú thụ hưởng sự ngon, lạ, hay, đẹp của thức ăn động vật. Họ
lấy cảm giác giả tạo của vị giác, xúc giác làm cơ sở ý thức nên ý thức thúc đẩy
con người đi tìm thoả mãn cảm giác giả tạo đó.
Vậy
việc cần làm để có sự thay đổi là phải thay đổi một ý thức mới dựa trên nền
tảng tinh thần thanh tịnh, nhằm thực hiện tinh thần thanh tịnh trong cuộc sống
của nhân loại, trong đó sự thay đổi thói quen về thức ăn thức uống và thay đổi
ý thức về ăn uống là chủ yếu. Phải làm cho ý thức ăn thức ăn từ thực vật trở nên
nhu cầu thiết yếu của nhân loại, một nhu cầu thực thụ trong vị giác và trong ý
thức, nghĩa là chế biến thực vật thành thực phẩm tạo cảm giác khoái khẩu, đầy
đủ chất bổ dưỡng tốt đẹp. Và giáo dục tạo ý thức ưa thích thực phẩm thực vật,
ghê tởm thực phẩm từ động vật, và ý thức không tham đắm trong ăn uống, chỉ ăn
đủ sống có sức khoẻ, không bệnh tật ốm đau, không lấy cái ăn làm cái hưởng thụ
dục lạc.
Xây
dựng mục đích cuộc sống đời người là để tiến hoá trong tâm linh, không phải
hưởng thụ thấp kém về ăn uống ngủ nghỉ. Làm mọi cách để nhân loại thấy rõ, thấy
rất cụ thể sự tiến hóa tâm linh là có thật, có khả năng đạt được trong những
điều kiện chỉ đưa con người tới chỗ tối tốt đẹp, tối thiện mỹ ngay trong cuộc
sống thanh tịnh mà sự thanh tịnh này chỉ có được nhờ sự thay đổi ý thức sống
không ăn thức bất tịnh đó của nhân loại.
Dĩ
nhiên sự chuyển hoá theo hướng thiện này không phải là công việc của một người,
của một quốc gia mà là công việc của toàn thể nhân loại trong suốt thời gian
tồn tại của loài người.
Một
ngàn năm, một trăm ngàn năm, một triệu năm, nhiều triệu năm chỉ nhắm một mục
đích đó thì dần dần phải thành hiện thực, được thực hiện.
“Ta tập thói quen ý thức chỉ ăn để sống khoẻ mạnh”.
“Ta tập thói quen ăn toàn thực phẩm thực vật”.
“Ta tập thói quen chỉ ăn trong bữa ăn”.
“Ta tập thói quen chỉ ăn ngày một hay hai bữa”.
Hạnh
phúc thay khi đời người hoàn tất được mục đích đời sống!!!
Định Vô Lậu là một phương pháp tu tập rộng lớn vô cùng khi chúng
ta sử dụng một pháp môn nào để tâm vô lậu bất động; để tâm thanh thản, an lạc
và vô sự là tu tập Định Vô Lậu. Định Vô Lậu nhằm triển khai tri kiến giải
thoát. Ai có tri kiến giải thoát là có tâm vô lậu.
Tám
lớp tu học (Bát Chánh Đạo) của Phật giáo là tám lớp tu học tâm vô lậu. Cho nên,
Định Vô Lậu bao gồm tất cả 37 phẩm trợ đạo cũng nhằm mục đích tâm vô lậu. Sự
chứng đạt của Phật giáo cũng nhằm chứng đạt tâm vô lậu. Quả A La Hán là quả vô
lậu. Vì chính tâm vô lậu mà đạo Phật tu tập xả tâm, ai xả tâm giỏi là người ấy
dễ chứng đạo, do vô lậu mà đạo Phật tu tập không có khó khăn không có mệt nhọc,
chỉ cần biết cách thức xả tâm là chứng đạo ngay liền, đâu phải đợi 7 ngày, 7
tháng, 7 năm. Phải không quý Phật tử?
--o0o--
Sau thời gian tu tập quá mệt nhọc (vì
đã ra sức dụng công), cơ thể và tinh thần của quý vị đã mỏi mệt thì hãy tu tập
Định Sáng Suốt, tức là phương pháp thư giãn. Muốn tu tập phương pháp này thì
quý Phật tử buông xả các pháp ra có nghĩa là quý vị không còn tu tập pháp nào
cả, tìm một nơi an tịnh ngồi buông thả tay chân ra và tác ý: “Các cơ và
tinh thần buông xuống! Buông xuống hết!”. Quý vị nhắc như vậy để rồi toàn thân sẽ thư giãn, và tinh
thần sẽ thấy thoải mái, an lạc và dễ chịu.
Tập
luyện các pháp môn Chánh Niệm Tĩnh Giác và Định Niệm Hơi Thở là để quý Phật tử
định tỉnh và ngăn ác diệt ác pháp trên thân tâm, nhưng tập luyện kéo dài sẽ bị
ức chế. Vậy thì phải có giờ nghỉ. Chính giờ nghỉ là giờ quan trọng. Điểm quan
trọng nhất là pháp xả tâm trong giờ nghỉ.
Trong
giờ nghỉ, tâm quý Phật tử khởi lên niệm gì, thí dụ muốn nói chuyện, muốn làm
cái này cái kia thì nhất định không làm theo nó. Đó là pháp thư giãn Xả Tâm.
Thật sự ra không cần phải tập luyện pháp gì khác mà
tối ngày giữ mình là người vô sự, không làm gì hết, cứ ngồi mà xả tâm thôi,
niệm gì khởi lên cũng xả hết, riết rồi mình có cái lực khiến cho đủ cả 7 Giác
Chi xuất hiện. Cái tâm lúc đầu khởi lên sai bảo mình vậy, sau đó nó không sai
bảo được nữa là mình đã phá sạch các dục, tức là thư giãn xả tâm.
Tâm sạch hết các dục, các lậu hoặc thì tâm thanh
tịnh. Đó là điều quan trọng nhất của đời người tu tập, Thầy gọi là “Xả
tâm”. Còn đức Phật nói là “Đẩy
lui chướng ngại pháp”.
Thời nào cũng đẩy lui chướng ngại pháp. Tất cả các thời khóa biểu mà đức Phật
đã để lại đều nhắc nhở, dạy phải “đẩy lui các chướng ngại pháp”. Cái
tâm suy nghĩ, sai sử chính là chướng ngại pháp. Nó làm cho mình không vô sự.
Cho nên, phải nhớ giờ thư giãn chính là giờ xả tâm. Quý Phật tử cứ làm lặt vặt,
làm cho khuây khoả thì đó là phóng dật.
Cách
giữ tâm vô sự, thư giãn thì điểm quan trọng cần biết là mỗi niệm khởi lên đều
mang theo tính chất sai bảo mình làm, hoặc không có tính chất sai bảo làm. Quý
vị phải nhớ là khi niệm nào sai bảo mình làm gì thì nhất định không làm. Không
làm theo niệm tức là li dục. Khi niệm
muốn quý vị làm tức là có niệm dục thì nhất định không làm là li dục. Không làm
là không bị phóng dật.
Quý
vị cần phân biệt niệm dục và niệm “tào lao”. Niệm tào lao là niệm không sai bảo
mình làm gì hết. Thí dụ quý vị nhớ bạn bè hay những tư tưởng này kia
thì điều đó không quan trọng; chỉ có niệm sai bảo quý vị làm gì thì đó mới là
niệm dục.
Trong giờ tập luyện thư giãn, không có niệm gì hết
là tốt. Cứ để cho nó không niệm. Còn khi có niệm thì quý vị phải suy xét coi để
phân biệt niệm nào là niệm dục. Phải nắm cho vững điều này quý Phật tử mới tập
luyện Định Thư Giãn được.
Vừa tập luyện xong Định Niệm Hơi Thở thì qua tập
luyện Định Thư Giãn tức là Định Sáng Suốt để có thời gian nghỉ ngơi, tiếp tục
tập luyện Chánh Niệm Tĩnh Giác, rồi Định Sáng Suốt lại. Như vậy là tập luyện
liên tục, không có nghỉ. Nghỉ là tập luyện Định Sáng Suốt, giữa hai pháp tập
luyện kia cần xen Định Sáng Suốt (hay Định Thư Giãn) vào giữa. Cách thức thư
giãn không phải dễ thực hành đâu, coi chừng bị ức chế mà không hay.
Thư giãn là nghỉ ngơi, phải để thân và tâm hoàn
toàn nghỉ ngơi. Phải tác ý cho nó xả chứ không thì làm như tập luyện mà không
có thời gian nghỉ ngơi sẽ đi đến chỗ ức chế tâm. Cứ tác ý thư giãn theo Định
Sáng Suốt để không bị kẹt vào các pháp tập luyện khác mà tập cho nó lìa ra khỏi
các pháp để nghỉ ngơi. Nghỉ thì ra nghỉ, tập luyện thì ra tập luyện. Thư giãn cũng là tập luyện, không
phải nói thư giãn là thư giãn được liền đâu, phải tập luyện.
Định Thư Giãn (hay Định Vô Sự cũng là Định Sáng
Suốt) hơi khó vì khi yên lặng thì tâm thường gom vào hơi thở khi ngồi, còn nếu đang đi thì nó lại gom vào bước
đi. Làm sao để nó không gom về hai cái đó. Thư giãn thì phải làm như mình không
biết tập luyện là gì hết, phải xả ra.
Khi đi thư giãn thì phải nhắc tâm đừng tập trung
tâm dưới bước chân mà nhìn cái này cái kia nếu đi trong thất, còn đi ngoài trời
thì nhìn cây cối, trời mây. Đừng lưu ý bước chân, đừng lưu ý hơi thở, đi như
người vô sự. Thư giãn thì trở về trạng thái như khi không tập luyện gì hết. Tác
ý để cơ bắp, thần kinh lơi ra, thư giãn ra. Nói chung thư giãn thì không tập
trung trong pháp, phải trở về cái bình thường, không được ở trong ác pháp. Nó
sai bảo mình làm gì thì không làm theo, đó là li dục. Chỉ có vậy thôi!
Tóm lại, giai đoạn đầu tiên tập luyện Định Sáng
Suốt hay Định Thư Giãn thì quý Phật tử tập trung như thế cho biết để sau này tu
tập tới giai đoạn hai là Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ mới dễ. Khi bước qua tu Tứ
Niệm Xứ, tức là tập luyện tĩnh giác có nghĩa là “Trên thân quán thân để khắc
phục tham ưu” thì quý Phật tử ở trên đó mà quét sạch chướng ngại pháp trên bốn chỗ
thân, thọ, tâm, pháp.
Một
ngày một đêm mà tu tập như vậy quý Phật tử sẽ ước nguyện cho gia đình được bình
an và bệnh tật sẽ được chuyển đổi, khiến cho gia đình được thay đổi đem đến sự
yên vui hạnh phúc.
Với
một lòng tin vững chắc không gì thay đổi, với một tâm tha thiết tìm cầu sự giải
thoát chân thật trong pháp môn của Phật giáo thì quý Phật tử sẽ thấy kết quả
giải thoát ngay liền, khiến cho thân tâm vô sự và an lạc. Cuộc sống không còn
biết lo lắng, sợ hãi và bận rộn về mọi việc.
Vì
thế, quý Phật tử phải cố gắng tu tập như lời Thầy đã dạy Thọ Bát Quan Trai. Thọ
Bát Quan Trai là tu thiện pháp, luôn luôn lúc nào cũng ngăn ác và diệt ác pháp
để cho cuộc sống lúc nào cũng sanh thiện và tăng thiện pháp. Cho nên, không cần
phải tụng niệm, cúng lễ và sám hối niệm hồng danh chư Phật theo các nghi thức
ngày xưa của kinh sách phát triển.
Nếu
quý vị chuyên cần tu tập và sống đúng giới hạnh thì trong một ngày một đêm quí
vị sẽ thấy kết quả giải thoát đau khổ của kiếp người rất rõ ràng và cụ thể.
Nếu
biết giới luật Phật có lợi ích không lường thì quý vị nên phát khởi thiện tâm,
tu tập rốt ráo, liền được thiện giới thanh tịnh.
Khi
tu tập và trau dồi thân tâm như vậy là quý vị đã thực hiện giới thể theo pháp
môn bốn định, như Thầy đã dạy ở trên thì chứng quả giải thoát đâu còn xa, chỉ ở
trong tầm tay của quý Phật tử. Phải cố gắng lên tu tập để không phí uổng một
kiếp làm người.
Thưa quý vị Phật tử! Trong một ngày một đêm vừa qua, quý vị
đã cố gắng thực hiện đúng đời sống của một bậc chân tu. Đó là sự gieo duyên để
sau này có đủ duyên để trở thành bậc chân tu giải thoát của Phật giáo, làm
gương sáng cho mọi người soi, làm gương hạnh giải thoát cho mọi người tu. Ngày
nay quý vị mới gieo duyên, ngày mai quý vị sẽ là những bậc Thánh Tăng. Phải cố
gắng một tháng chọn lấy một ngày tu tập sống làm Phật thì mới mong có ngày làm
Phật thật sự, tức là giải thoát hoàn toàn, tâm bất động hoàn toàn.
Một
ngày một đêm quý vị có thấy khổ sở không?
Quý
vị có thích sống như vậy không?
Đời
sống giải thoát là phải như vậy. Nếu không sống như vậy thì làm sao giải thoát
được? Vì chỉ có lối sống này mới tìm được sự giải thoát của kiếp người. Phải nỗ
lực, kiên trì, vì cuộc sống con người toàn là khổ đau, toàn là trói buộc, không
lối thoát.
Một
đêm, một ngày quý vị đã sống đúng, sống được và tìm được nguồn an lạc trong
cuộc sống này là một điều đáng khích lệ.
Quý
vị đã bắt đầu thực tập sống một cuộc sống mới, cuộc sống giải thoát khỏi bao
nhiêu sợi dây triền phược của thế gian. Bây giờ có lẽ quý vị cũng ước nguyện
cho mọi người được an lạc khi Thọ Bát Quan Trai như quý vị. Xin hãy chia sẻ
pháp lạc này với các huynh đệ của mình!
Chúc
quý vị đạt kết quả tốt trên đường tu tập!
Tu Viện
Chơn Như
Mùa An Cư
năm 2000
No comments:
Post a Comment