Saturday, October 12, 2013

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

Mục lục

1. Trau dồi Tứ vô lượng tâm

2. Thành phần và hành tướng của Tứ vô lượng tâm

2.1 Từ vô lượng


2.1.1 Trau dồi từ tâm nơi thân hành

2.1.2Trau dồi từ tâm nơi khẩu hành

2.1.3 Trau dồi từ tâm nơi ý hành
2.2 Bi vô lượng
2.3 Hỷ vô lượng

2.4 Xả vô lượng

(P/s: Mục lục do chúng tôi tự đặt, quý bạn nên cùng nghe pháp âm và đọc bản text, hoặc nghe trước, đọc sau).

Bây giờ thì Thầy sẽ tiếp tục Thầy dạy quý thầy trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm. Tại sao phải trau dồi nó đây? Đây là một vấn đề mà có Chánh Đức hỏi Thầy, "Thầy cho con cái địa danh mà chưa cho con cái địa chỉ, địa danh thì chúng con biết rồi, nhưng mà địa chỉ chưa có thì làm sao chúng con tới nhà được". Cho nên ở đây bắt đầu chúng ta làm người cư sĩ, ở trong giai đoạn 1 mà, khi mà chúng ta thông hiểu được Phật pháp rồi, thông hiểu được những cái giáo pháp mà Phật dạy cho người cư sĩ phải tu cái gì. Thì bây giờ các con hiểu cái gì rồi? Các thầy hiểu cái gì? Thập Thiện, phải không? Thầy đã giảng Thập Thiện rồi thì đó là mình hiểu rồi. Nhưng mà các con chưa có trau dồi, chưa có tu tập gì được đâu. Nghe nói Thập Thiện vậy, nghĩa là thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, v.v.. nhưng mà các con chưa có làm được đâu. Nghe thì hiểu chứ chưa có làm được đâu. Bây giờ trau dồi nè, để mà làm cho được nè, đây là vấn đề quan trọng nè, mà đây là cái địa chỉ để cho các con đi tới cái nhà đó. Bởi vậy, Thầy dạy đâu nó có cái cách thức chứ không thể nào mà không mà nhào vô được một cái rột để mà chứng thành đạo quả Bồ đề được đâu liền, mà phải đi từng chút. Cái tâm của chúng ta bây giờ là cái tâm tham - sân - si, mà không trau dồi nó làm sao nó hết tham - sân - si. Mà phải trau dồi cái gì? Đâu phải hằng ngày mình nhắc nó hết tham, sân, si, rồi nó hết sao? Chưa đâu. Mình phải trau dồi cái gì để đối trị nó chứ. Cho nên Phật nói tâm từ đối trị sân mà, mà mình muốn hết sân thì mình phải trau dồi cái từ trước chứ. Còn giờ tâm chưa có từ mà lúc nào cũng nói để mà không sân thì chắc chắn người đó chưa bao giờ có được. Nhưng mà muốn trau dồi cái lòng từ của chúng ta thì phải trau dồi như thế nào? Chứ đâu phải bảo nó "tâm từ", "tâm từ", "tâm từ" được sao? Không có được đâu. Cho nên vì vậy mà ở đây chúng ta phải hiểu trước nó.
TRAU DỒI TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Tâm có một giá trị hay không là do ở chỗ rộng hẹp của nó. Muốn tâm có giá trị thì phải trau dồi, tập sống được như tâm Phật, tâm thương chúng sanh rộng lớn vô bờ, vô biên.
Đó, mình phải tập sao cái tâm của mình rộng lớn được như vậy, trau dồi cho nó rộng lớn được như vậy thì mình mới thấy cái chỗ dứt ác, mà thể hiện thiện thì mới có thể được, mà tâm mà không thương yêu chúng sanh thì khó mà có thể dứt ác được. Bởi vì lúc người ta chửi mình ấy, thì đâu phải như một con vật bình thường kia hoặc là người bình thường kia cho nên chúng ta thấy thương dễ. Lúc mà người ta chửi mình chưa chắc đã là thương được. Nhưng tại sao mà người ta tu tập cái lòng từ đó, mà khi người khác chửi mình, mình thương họ được. Thì cái đó mới là đối trị được cái tâm sân. Cho nên chúng ta sẽ lần lượt, chúng ta sẽ trau dồi được thân tâm chúng ta bằng cách nào cho đúng pháp. Chứ không biết ấy, hầu hết là quý thầy cũng học Tứ Vô Lượng Tâm nhưng không biết cách thức trau dồi, cho nên tới bây giờ tâm từ của quý thầy có nói có thương không? Chắc chắn là tui đã biết nó như vậy, nhưng bây giờ chưa chắc tui đã thương khi mà người ta chửi tui. Đó, Thầy nói như vậy để quý thầy suy ngẫm lại cái con đường mà Thầy dẫn dắt quý thầy phải tập luyện từng chút. Tu là phải chịu khó tập luyện chứ đâu phải tu mà Thầy nói ran cổ họng Thầy nhưng mà quý thầy nghe rồi về để chơi thì chắc chắn là Thầy mệt mỏi quá. Nói để cho quý thầy về mà rèn luyện, trui luyện từng chút cái tâm của mình, để cho nó được từ, được bi, được hỷ, được xả. Thì như vậy nó mới lợi ích cho quý thầy, nó mới giải thoát. Còn nếu mà Thầy nói để quý thầy mà nghe chơi thì thiệt là mệt mỏi cho Thầy. Cho nên Thầy thấy quá khó. Chớ không phải biết ai là người nghe Thầy, ai là người không nghe, mà nghe để chơi cho nên cái đó là cái mệt mỏi.
Như Phật đã dạy, khi vào với đạo Phật, điều tiên quyết quý thầy phải thông hiểu. Đó thì như Thầy đã đem một số điều thông hiểu cho quý thầy rồi đó, những cái bài giảng trước là đem cho sự thông hiểu đó, chứ chưa phải là sự tu tập. Cho nên Chánh Đức nói câu nói rất rõ ràng: "Thầy cho con cái địa danh, chứ chưa cho con cái địa chỉ". Đúng vậy! Mình phải thông hiểu tức là mình phải thông hiểu cái tỉnh đó, nơi đó ra sao, cái địa danh đó như thế nào, thế nào... Mình phải thông hiểu tổng quát nó hết đi, rồi bây giờ bắt đầu cho địa chỉ để đến cái nhà đó. Đó, thì như vậy là một cái điều mà Thầy đã mở ra một cái vòng để cho thông hiểu đó, rồi tới đây chúng ta sẽ trau dồi, thì tức là cái địa chỉ để chúng ta đến nhà. Đây là cái bắt đầu để nhìn vào cái địa chỉ chúng ta đi, sau đó phải trau dồi, rồi tu tập và đoạn dứt. Đó, lần lượt, khi đó rồi trau dồi, rồi tiếp tục tu tập, rồi mới đoạn dứt nó.
Bây giờ quý thầy phải thông hiểu Tứ Vô Lượng Tâm như thế nào? Bây giờ mình nghe nói Tứ Vô Lượng Tâm, mình không biết tên họ nó là gì hết, không biết nó là sao hết, mình không hiểu nó là cái gì nữa thì như vậy là chỉ cái danh từ suông thôi. Cho nên mình cần phải hiểu thêm nó.
Tứ là bốn, Vô Lượng Tâm là bốn tâm rộng lớn mênh mông, phủ trùm tất cả chúng sanh, không thể lường, tính được. Đó là tứ vô lượng tâm, là cái nghĩa của nó, là cái tâm rộng lớn phủ trùm tất cả chúng sanh, không thể tính lường được chỗ nào hết, nghĩa là vô bờ bến. Vô Lượng Tâm là tâm vô cùng rộng lớn, thoát ra khỏi mọi sự ràng buộc các dây mơ rễ má của mọi tâm lý tình cảm, thương ghét, giận hờn, tị hiềm, kiêu căng, nghi ngờ, ngã mạn của phàm phu, phá vỡ tà kiến, thân kiến, chấp kiến trước mọi trí tuệ mê mờ, lầm lạc. Đó là cái tâm nó như vậy đó. Nó làm cho chúng ta, cái thứ nhất là chúng ta hiểu nó rộng lớn mênh mông; cái thứ hai, nó rộng lớn mà thoát ra ngoài những sự ràng buộc của những sự trói buộc tình cảm của chúng ta, rồi nó thoát ra ngoài những thương ghét giận hờn, tỵ hiềm, kiêu căng, ngã mạn, mà nó còn thoát ra ngoài những tà kiến, thân kiến, chấp kiến trước mọi trí tuệ mê mờ, lầm lạc. Đó, chúng ta trau dồi nó, để mà chúng ta thấy được, chúng ta thoát ra được, cho nên nó rộng lớn như vậy, nó phải phủ trùm hết, nó phải hiểu biết, nó rộng lớn cho nên không có một tà kiến, không có một tình cảm nào mà có thể xen vào Tứ Vô Lượng Tâm này được. Chứ không phải là chúng ta tu Tứ Vô Lượng Tâm mà chúng ta hiểu một cách cạn cợt thì chúng ta làm sao mà rộng lớn được như vậy. Cho nên chúng ta càng trau dồi nó, càng ngày càng trau dồi nó thì nó càng rộng lớn và càng rộng lớn thì sự hiểu biết của chúng ta càng rộng lớn. Cho nên từ đó mà chúng ta mới thực hiện được cái tâm vô ngã, chứ đâu phải là dễ. Nếu không có bốn cái tâm này Từ - Bi - Hỉ - Xả, khó mà chúng ta thực hiện được tâm vô ngã.
Vô Lượng Tâm còn có nghĩa là đẳng tâm, là tâm bình đẳng. Tâm này tự nhiên, không so đo, cao thấp, hơn kém, phổ biến, ban rải mọi nơi, mọi chỗ, không giới hạn. Nghĩa là cái tâm bình đẳng, không có thấy người đó hơn mình, không có thấy mình hơn người đó, người nào cũng bình đẳng hết, từ con vật nhỏ tí ti cũng bình đẳng với mình, nghĩa là xem nó như mình chớ không thấy nó là con vật nhỏ. Còn chúng ta hở ra chút thì thấy có lớn, có nhỏ, đối xử với nhau nghe có khác lạ. Thấy con kiến thì mình đối xử như một con vật, chớ còn cái người mà tâm vô lượng này thì họ đối xử con vật như chính đối xử với một con người khác. Đó là những cái định nghĩa để chúng ta thấy được cái tâm vô lượng nó rộng lớn như vậy, nó vượt thoát mọi tà kiến, chớ không phải hẹp hòi ở trong chữ ban rải đối với chúng ta thương yêu một cách cạn cợt. Khi mà hiểu biết được như vậy ấy, thì chúng ta hãy cố gắng mà trau dồi nó, làm cho nó được rộng lớn như vậy.
Do trau dồi tâm bình đẳng này làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh thoát khổ, nên tâm này có công năng mang đến cho con người vô lượng phước báu. Nghĩa là trau dồi cái tâm bình đẳng này thì không bao giờ làm phiền lòng người nào hết, bởi vì mình biết ai cũng như mình hết, mình biết ai cũng thọ khổ, ai cũng như mình hết cho nên trước cái khổ của họ thì mình dùng tâm bi liền tức khắc. Người ta đang tức giận mình, thì ngay đó là tâm bi mình phải thực hiện liền. Như Thầy đã dạy, tâm từ là khi người ta bình thường, người ta không giận, không hờn gì hết thì tâm từ của mình đối xử mọi người rất là kính trọng họ, rất là cung kính họ, luôn luôn không bao giờ nói một lời nặng với họ, đó là tâm từ. Còn tâm bi, khi thấy người ta giận thì ngay đó là biết người ta khổ, do đó mình thực hiện tâm bi là trước cái khổ của người khác, một người đang bị bệnh, một người đang bị tai nạn thì mình mới dùng tâm bi. Tới cái chỗ đó Thầy sẽ dạy rất kĩ cho quý thầy thấy để mà chúng ta trau dồi tâm bi như thế nào, mà tâm từ như thế nào.
Mà nếu cái tâm Tứ Vô Lượng Tâm này, cái tâm bình đẳng này mà chúng ta đã trau dồi được nó thì cái thế giới này, cái con người này là hưởng hạnh phúc, an vui, thanh bình, không bao giờ mà có chiến tranh, có giặc giã nữa hết. Bởi vì, chúng ta từ con vật mà chúng ta còn biết thương y như mình thì thử hỏi con người làm sao chúng ta không thương hơn? Con người đã thông cảm nhau những nỗi khổ của nhau trong cuộc sống, có đâu mà lại tranh giành giết nhau. Cho nên cái tâm từ nó biến chúng ta trở thành một con người chung của mỗi con người.
Bốn tâm vô lượng này không những làm lợi ích cho chúng sanh an lành, hạnh phúc mà còn ban rải cho mọi nhà, mọi nước và cả thế giới trật tự, an ninh, thanh bình, không chiến tranh. Vô lượng ở đây quý thầy phải hiểu nghĩa của nó bao hàm nhiều nghĩa. Nghĩa chữ vô lượng ở đây nó bao hàm nhiều cái nghĩa của nó chứ không phải như hồi nãy Thầy nói tổng quát, chung chung để cho quý thầy thấy cái vô lượng của nó. Nhưng ở đây chúng ta phải phân ra, chúng ta thấy được nó có mấy cái nghĩa của nó ở trong cái bao hàm đó.
- Vô lượng nhân lành: đem lại cái nhân lành cho mọi người, nó không làm cho mọi người đem cái nhân ác. Chẳng hạn một người chửi Thầy, Thầy nhịn, Thầy nhẫn, Thầy không bao giờ chửi lại họ, mà Thầy còn xuống nước Thầy năn nỉ họ, làm cho họ mát lòng, mát dạ, tức là gieo cái nhân lành cho họ, họ không còn chửi Thầy nữa. Đó là vô lượng nhân lành, còn chúng ta thấy người ta chửi mình thì mình chửi lại đó, đó là cái nhân ác, nó tiếp tục cái nhân ác nữa.
- Vô lượng quả đẹp: Nghĩa là luôn luôn nó đem đến cho cuộc sống của chúng ta luôn luôn đẹp đẽ, không bao giờ có sự phiền toái trong đó, cho nên gọi là vô lượng quả đẹp, đến đâu thì nó đem cái đẹp đẽ đến đó, cái an vui đến đó.
- Vô lượng chúng sanh: đối với chúng sanh nào cũng được an lành, cũng được đẹp đẽ hết chứ không phải có con người không, mà có cả con loài vật. Thầy ví dụ, như chúng ta mà có những cái y áo mà bị một bầy kiến vào, thì lúc bấy giờ chúng ta thực hiện tâm từ thì không bao giờ mà chúng ta hề hấn đến cái sinh mạng của con vật. Chúng ta nghĩ tiếc bộ quần áo, y áo của minh, đem mà đập, giũ biết bao nhiêu là con vật chết? Như vậy là quý thầy có trau dồi tâm từ ở đâu? Loài vật nó đâu biết, trời mưa, trời gió nó mới vô đó để mà nó nằm, nó ẩn núp, ẩn mưa, ẩn gió, ẩn lạnh. Chúng ta không có thương, không nghĩ đến cảnh khổ, bây giờ giả dụ như mình ở ngoài trời kia, mà trời mưa trời gió chúng ta có chịu nổi không? Thì con kiến nó nhỏ nhít hơn, nó lạnh lẽo mà nó trốn, nó sợ nước trôi nó chết đi, nó quá sợ nó bu vô nhà chúng ta. Thì chúng ta có sợ nó thì chúng ta tìm cách ngăn ngừa nó trước đi, nó không vô nó đi chỗ khác nó lánh thân nó, đằng này để cho nó bò ngập nhà mình lên rồi bắt đầu mà quét, mà đùa, mà hốt, mà đốt, mà giải thì thử hỏi tâm từ của chúng ta chỗ nào, như vậy có đau khổ chúng sanh không? Như vậy là không có vô lượng chúng sanh được.
- Vô lượng thế giới: nghĩa là tất cả thế giới, không phải trong cái thế giới của chúng ta không mà cả thế giới trùng trùng điệp điệp trên không gian này, thế giới nào chúng ta cũng phủ trùm hết.
- Vô lượng đời kiếp: nghĩa là từ kiếp này đến kiếp khác, tức là vô lượng thế giới - nói về không gian, mà vô lượng đời kiếp nói về thời gian. Nghĩa là kiếp nào, đời nào nó cũng đẹp đẽ, cũng tốt đẹp, đem đến cho mọi người, mọi sinh vật ở trên thế giới này đều được an lành, đều được tốt.
Đó là năm cái điều kiện mà nó bao hàm cái nghĩa của nó, rộng đẹp như vậy.
2. THÀNH PHẦN VÀ HÀNH TƯỚNG CỦA TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Bây giờ Thầy nói về thành phần của bốn cái tâm vô lượng này. Thành phần và hành tướng của bốn tâm vô lượng là:
               1. Từ vô lượng
               2. Bi vô lượng
               3. Hỷ vô lượng
               4. Xả vô lượng
2.1. Trau dồi tâm Từ vô lượng
Tứ vô lượng tâm là gì? Tứ vô lượng tâm là lòng mến thương của chúng ta vô cùng vô tận đối với tất cả chúng sanh, từ cây cỏ thảo mộc cho đến loài động vật, dù con vật hung dữ chúng ta cũng ban rải lòng từ, tránh vô tình gây đau khổ cho chúng sanh; thương mến, đem lại cho chúng sanh cái vui chân thật, cái vui mà do chính lòng từ mang đến, làm cho vạn vật vui mừng, cỏ cây tươi tốt, trong đó có mình.
Thì ở đây Thầy giới thiệu về Tứ Vô Lượng Tâm là nó gần gũi, hồi nãy thì nó bao la mênh mông, lần lần nó đi gần tới cái chỗ hạn hẹp, gần chúng ta thì chúng ta phải thấy cái lòng thương của chúng ta như thế nào. Đây là cái phần mà nó hạn hẹp đối với cỏ cây, cho nên Đức Phật đi không có đạp lên cỏ nữa, đó là cái hành của Phật ngày xưa, thân hành của Phật đi không có giẫm đạp lên cỏ, tránh cỏ sợ nó bị giẫm đạp nó dập, nó héo úa mà thương xót nó đến như vậy. Đó là cái loài thảo mộc, còn chúng ta thì không như vậy. Cho nên ông Phật ông chấp nhận là theo đạo ổng thì lấy cái nghề đi xin ăn, không có làm hại một con vật, một cái cây cỏ nào hết. Còn chúng ta thì đụng đâu bứt bỏ hết, nghĩa là bứt đầu nó hết, nhổ luôn cả rễ nữa chứ đừng nói. Còn ông Phật thì không dám đạp lên, còn chúng ta thì đạp bừa lên hết, chỉ miễn là mình sạch sẽ thôi. Thật sự ra thì mình nghĩ rằng mình tu tập chứ chưa giống ông Phật chút nào hết, mình còn xa ông Phật lắm. Ông Phật tổ chức giáo đoàn của ông ta cũng vậy, khuyên lơn đừng có thế, thậm chí món ăn thừa thì ông cũng không có cho bỏ ở trên cỏ nữa, sợ cỏ nó vì cái chất mặn sẽ héo úa nó đi, bỏ ngoài đất trống thì đủ biết lòng từ của Đức Phật như thế nào rồi. Do theo đạo Phật, thì chúng ta hãy cố gắng mà thực hiện cái Tứ Vô Lượng Tâm này.
Trong đời sống chúng ta có hai cái vui. Nói về lòng từ thì chúng ta phải phân biệt được cái vui này. Trong đời sống chúng ta có hai cái vui:
          1. Cái vui bền bỉ chân thật.
          2. Cái vui ngắn ngủi, giả tạm.
Như Phật đã dạy, là làm sao cho người vui mà mình vui và tất cả sanh linh, cỏ cây đều vui tươi. Đó là cái vui lâu dài, chân thật. Đó là cái tâm lòng từ, bi, hỷ, xả của chúng ta ban rải khắp muôn loài vạn vật. Cái vui đó bền bỉ, không bao giờ biến hoại, dù trước bất cứ cảnh nào nó cũng ban lòng từ rải khắp nơi. Vì thế mà sự vui kia mới được lâu dài. Đó, thì hôm nay quý thầy nhận ra được cái vui, mà cái vui lâu dài và cái vui không lâu dài. Rồi đây cái vui không lâu dài thì các thầy chắc tưởng tượng ra cũng được rồi. Thầy chưa giải thích nhưng chúng ta cũng sẽ hiểu được rồi chớ không khó gì. Nhưng đến đây Thầy xin ngừng lại.
Bây giờ Thầy tiếp tục cái bài học vừa rồi là Tứ Vô Lượng Tâm. Trong đời sống của chúng ta có hai cái vui. Cái vui thứ nhất là cái vui bền bỉ chân thật. Và cái vui thứ hai là cái vui ngắn ngủi giả tạm. Như Phật đã dạy là làm sao cho người vui mình vui và tất cả chúng sanh cỏ cây đều vui tươi. Đó là cái vui lâu dài chân thật. Đó là cái tâm từ bi hỷ xả của chính chúng ta ban rải khắp muôn loài vạn vật. Cái vui đó là cái vui bền bỉ lâu dài không bao giờ biến hoại, dù trước bất cứ cảnh nào nó cũng ban lòng từ rải khắp nơi. Vì thế mà sự vui kia mới lâu dài.
Còn cái vui ngắn ngủi, giả tạm, là cái vui ấy còn bị phiền não chi phối, khi tham sân si mạn nghi đòi hỏi được thì thỏa mãn, thì vui, còn ngược lại là buồn khổ. Cái vui này là vui theo dục lạc, được thì vui, mất thì buồn. Như chúng ta đã biết, dục lạc không bao giờ có thể thỏa mãn được hoàn toàn. Phật dạy: Kẻ ngu si, vô minh mới chạy theo vui dục lạc, nó là thứ dục lạc ảo giác, đâu có thật, chỉ có người trí mới  biết mà thôi. Bởi vậy, cả hai lộ trình của Đạo Phật mà Thầy đã dẫn dắt chỉ cho các thầy biết để tu tập trên hai lộ trình này và tìm cái vui chân thật, nơi đó bền lâu, thoát ra ngoài vòng phiền não tham, sân, si, mạn, nghi và không bị dục lạc chi phối. Nó không ồn náo sôi nổi, ầm ĩ. Nó nhẹ nhàng, thầm lặng như một bóng, một hình trong cái vui của cảnh giới siêu phàm giải thoát nhưng lại hòa mình trong vạn hữu của vũ trụ. Cái vui bất tuyệt của vạn pháp, cô đơn mà lại không cô đơn.
Thì ở đây, quý thầy thấy mình phải đi chọn lấy cái vui nào là thật, mà cái vui nào là giả, vì cái Tứ Vô Lượng Tâm, vì cái tâm từ bi hỷ xả của chúng ta nó đem đến cho chúng ta một cái nguồn vui. Mà cái nguồn vui ở đây có hai nguồn vui: cái nguồn vui chân thật và cái nguồn vui không chân thật. Cho nên chúng ta phải biết cái nguồn vui nào không chân thật mà cái nguồn vui nào chân thật. Vì vậy mà phải so sánh hai nguồn vui này để chúng ta tránh cái nguồn vui không chân thật mà hãy tìm lấy cái nguồn vui chân thật để chúng ta thực hiện cái Tứ Vô Lượng Tâm này, để đạt được nguồn vui chân thật đó. Nếu không có 4 tâm vô lượng này thì không bao giờ chúng ta tìm ra được nguồn vui chân thật đó. Do vì vậy mà hằng ngày khi mà học cái bài này, hằng ngày muốn tìm được nguồn vui chân thật thì quý thầy phải trau dồi thân và tâm của mình trong ba hành động của nó. Nghĩa là thân hành, khẩu hành và ý hành. Hằng ngày trau dồi 3 hành động của thân của chúng ta như vậy thì chúng ta sẽ có được một nguồn vui chân thật và tâm thương yêu của chúng ta càng lúc càng rộng lớn.
Muốn được vậy thì chúng ta phải hiểu cái vui của đạo lâu dài thì người cư sĩ cũng như người tu sĩ phải hằng trau dồi thân tâm mình bằng pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm như Thầy đã nói ở trên. Vậy trau dồi như thế nào?
Trong thân ta có ba hành: một là thân hành, hai là khẩu hành, ba là ý hành.
        1. Thân hành có hai: một là chân hành, hai là tay hành.
        2. Khẩu hành có hai: một là ăn, hai là nói.
        3. Ý hành có ba : một là ý thiện, hai là ý ác, ba là ý bất thiện bất ác.
2.1.1 Trau dồi Từ tâm nơi thân hành
Ở đây quý thầy khi muốn trau dồi nó thì chúng ta biết trau dồi chỗ nào? Cho nên Thầy ở đây Thầy vạch ra để cho quý thầy thấy chúng ta phải trau dồi trong những hành động đó để nó thực hiện được tâm từ - bi - hỷ - xả ở nơi ba cái hành động đó. Mà mỗi hành động thì nó phải có những hành động riêng tư của nó như chân mình đi, tay mình thì cầm nắm bắt. Đó thì nó phải theo cái hành động đó mà mình trau dồi tâm từ bi hỉ xả của mình ở tại hành động đó.
Còn về khẩu, về miệng của mình thì cũng có hai cái hành. Một cái hành là ăn, một cái hành là nói. Như vậy thì chúng ta phải trau dồi cái ăn, cái nói của mình. Chứ nếu không, nói ra thì làm buồn khổ người, mà ăn không đúng cách thì nó làm hại thân mình. Cho nên tất cả những cái này nó đều làm cho chúng ta buồn khổ mà không có vui được.
Về ý hành thì nó lại có 3, nó nhiều hơn hai cái hành kia. Cho nên nó có cái thiện, cái ác và cái bất thiện bất ác. Cho nên chúng ta phải trau dồi, và lấy Tứ Vô Lượng Tâm trau dồi ba cái hành động của thân này để cho chúng ta thực hiện được cái tâm vui mừng, cái tâm rộng lớn, cái tâm biết thương yêu, cái tâm biết thương xót tất cả mọi loài.
Bây giờ quý vị bắt đầu trau dồi Từ tâm nơi thân hành của mình, nghĩa là bắt đầu mình vô mình trau dồi liền. Trước kia Thầy giới thiệu cho biết Tứ Vô Lượng Tâm như thế nào, rồi bây giờ chia nó làm hai cái vui của nó: cái vui lâu dài và cái vui ngắn ngủi giả tạm. Thì bắt đầu bây giờ chúng ta ngay vào chúng ta trau dồi. Còn bây giờ lý thuyết mà lòng vòng mà không có đi thẳng vào sự trau dồi thì chắc chắn là chúng ta cũng chẳng đi tới đâu được hết. Nghe nói mà không biết cách thực hành, không biết cách làm thì Tứ Vô Lượng Tâm này cũng chẳng qua nói suông suông mà thôi chứ không thể nào thực hiện được cái tâm từ bi hỷ xả chúng ta. Một lời nói mà chúng ta không nhẫn với nhau, không nhường nhau, một ý kiến mà chúng ta không thuận nhau thì chúng ta có sự tranh chấp thì làm gì mà có sự vui trong đó được, làm gì có lòng từ, lòng biết thương nhau được? Cho nên tất cả những cái này là những cái điều mà những người cư sĩ thường tiếp giao với nhau, với mọi người thì phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm càng nhiều càng tốt để đem lại sự an vui cho mình, cho mọi người xung quanh mình.
Bây giờ chúng ta trau dồi về cái chân của chúng ta. Khi chúng ta đi thì chúng ta phải dùng theo cái hành động đi của chúng ta với cái pháp hướng mà đức Phật dạy trong kinh rằng Như Lý Tác Ý. Tác ý theo cái hành động đó bằng cái pháp hướng tâm của chúng ta, tức là chúng ta dùng một cái câu như thế nào để gợi lên cái lòng thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh khi chúng ta bước đi. Ở đây Thầy xin nhắc quý thầy ở đây không phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định bằng hành động mà mượn cái hành động chân đi để thực hiện cái tâm từ của chúng ta dưới bàn chân, dưới bước đi của chúng ta. Cho nên chúng ta dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý cái bước chân chúng ta đi. Pháp hướng như thế nào? Thầy đọc để rồi quý thầy tùy theo đó mà tự mình soạn ra pháp hướng cho phù hợp với cái đặc tướng của mình thì áp dụng sẽ có hiệu quả. Còn đây chỉ là một cái ví dụ để cho quý thầy mượn đó mà bắt chước mà thôi. Nhiều khi quý thầy lấy cái ví dụ này mà áp dụng vào mình thì chưa hẳn đã là đúng đặc tướng của mình. Đạo Phật khó là ở cái chỗ phải biết áp dụng đúng cái pháp hướng thì nó mới có hiệu quả, mà không áp dụng đúng cái pháp hướng thì nó không có hiệu quả. Đây Thầy đem một cái ví dụ, trước khi mà chúng ta áp dụng cái pháp hướng để trau dồi cái tâm từ bi của mình mà nếu mình không biết thì mình khó mà có thể áp dụng cho đúng cách thì nó cũng không có kết quả tốt cho sự tu tập này.
Ví dụ như người ta nói tâm và ý. Vậy thì lúc nào gọi cái tâm, lúc nào gọi là cái ý? Cái ý là nó có cái ý căn, là cái bộ óc của chúng ta. Còn cái tâm thì nó không có cái ý căn. Bởi vì nếu mà nói cái tâm thì nó phải có cái tâm căn chớ? Nhưng mà ở đây Phật dạy chúng ta là ý căn chứ không có bao giờ nói tâm căn. Cho nên khi chúng ta gọi cái ý là nó phải đúng là cái chỗ căn của nó, tức là cái chỗ nó làm việc. Cho nên thì cái ý căn phải ngưng hoạt động thì cái ý nó phải bám chặt ở chỗ nào? Còn nếu mà chúng ta gọi cái tâm phải bám chặt mà cái ý căn phải ngưng hoạt động thì nó chẳng biết đâu. Kêu cái thằng A mà làm việc của thằng B thì nó chẳng có biết được. Cho nên cái thằng nào nó phải làm việc ra cái thằng nấy. Vì vậy mà pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý phải như cái lý đúng của nó thì chúng ta tác ý nó mới có hiệu quả. Ở đây Thầy nhắc như vậy thì quý thầy phải nhận thấy được cái chỗ mà dùng cái pháp hướng Như Lý Tác Ý phải đúng lúc, đúng thời, hợp với đặc tướng của mình thì có hiệu quả rất nhanh, còn nếu không thì không hiệu quả. Cho nên cũng có nhiều người hướng tâm tu tập, nhắc tâm mình rất nhiều nhưng sao thấy nó trơ trơ mà không kết quả là do mình đặt không đúng tên, đúng họ, đúng trường hợp nó làm cho nên nó không có hoạt động được.
Đây là cái ví dụ để cho quý thầy khi mà chúng ta bước đi thì chúng ta hướng tâm. Khi từng bước đi của chúng ta bước đi thì chúng ta nhắc như thế này:
Dưới bước chân ta đi có nhiều loài sinh vật nhỏ nhít, có nhiều loài thảo mộc cỏ cây yếu mềm. Ta hãy bước nhẹ nhàng để tránh tất cả sự đau khổ và chết chóc của muôn loài.
Đó là một cái câu mà để chúng ta nhắc khi chúng ta bước đi. Do đó khi mà nhắc như vậy thì tâm chúng ta tỉnh thức ngay tại ở nơi bước đi và chúng ta tránh tất cả những con vật dưới bàn chân chúng ta. Rồi đi một lúc, chúng ta sợ nó quên đi rồi chúng ta lại nhắc, lại nhắc nữa. Do cái sự nhắc nhở, do cái sự sợ làm đau khổ, sợ làm chết chóc muôn loài nó gây cho chúng ta có một cái tâm thương yêu, thấm thía trong đó. Mà hàng ngày chúng ta trau dồi từng bước đi của chúng ta như vậy thì lòng từ của chúng ta nó ban rải khắp chúng sanh. Một cọng cỏ chúng ta không nỡ đạp lên nó sợ nó mềm yếu rồi nó héo úa đi, tức là thể hiện qua tâm từ của chúng ta ban rải khắp chúng sanh đó. Vừa đi nhẹ nhàng vừa hướng tâm nhắc như vậy lâu ngày tâm ta có lòng từ thương xót tất cả chúng sanh.

Vì hướng tâm nhắc như vậy lâu ngày huân tập trong tâm ta thành một thói quen thương xót chúng sanh. Đó thì ở đây thì quý thầy đã thấy rằng cái câu mà Thầy tạm để mà làm cái câu mà hướng tâm của mình để trau dồi cái Tứ Vô Lượng Tâm. Mà khi trau dồi được cái Tứ Vô Lượng Tâm, cái tâm thương yêu như vậy thì người ta chửi mình có giận nữa không? Khi mà thể hiện được hoặc là người ta nói một câu nói nó trái bụng mình, mình có giận không? Không bao giờ còn giận nữa. Cho nên Phật nói từ tâm đối trị tâm sân. Nhưng mà mình có trau dồi nó đâu? Cho nên mình nói là nói như vậy nhưng mà mình nói ờ quán, quán từ bi để đối trị tâm sân nhưng mà cuối cùng thì mình không trau dồi nó thì cái tâm sân của mình nó có hết không? Trước khi người ta mắng chửi mình thì ngay đó mình nói: ừ tôi cũng biết Tứ Vô Lượng Tâm, từ là đối trị tâm sân, tôi thường quán phải thương người bằng cách này bằng cách khác, hằng đêm tôi ngồi tôi quán luôn luôn lúc nào tôi cũng thương. Nhưng mà tới sao người ta chửi mình lại là mình giận, giận dữ lên? Thì cái đó là mình chưa có trau dồi trong hành động. Nó trau dồi trong hành động nó thể hiện qua cái hành động của chúng ta. Cái tâm chúng ta thường nhắc trong cái hành động, nó làm cho chúng ta thấm nhuần được cái lòng thương yêu đó.
Còn bây giờ chúng ta ngồi ở trên ghế chúng ta nói bây giờ chúng ta cũng quán, đó là quán, còn cái này là hướng, nó khác. Hướng theo hành động mà trau dồi, nó ở trong cái động. Còn cái kia quán là mình ngồi im lìm, rồi tư tưởng mình khởi nghĩ ra mình quán mình phải thương yêu chúng sanh bằng cách này bằng cách khác như thế này thế khác, nó không biến ra cái hành động cho nên nó trau dồi cái thân cái tâm từ bi của mình không có được, cho nên nó chỉ là tránh né trong một cái lúc nào đó để cho nó bớt cái giận hờn phiền não trong lòng nó mà thôi, rồi mình suy tư cái này cái kia để cho mình xả bớt cái tâm buồn khổ của mình, chớ đối tượng của mình, mình đã chửi người ta hồi chiều rồi thì bắt đầu làm sao mà gỡ ra cái đó được? Còn cái này tu ở trong trau dồi ở trong những cái hành động để chúng ta biến dần cái tâm từ bi, cái tâm thương yêu chúng ta chân thật.
Đó là cách thức mà Thầy diễn ra đây để cho quý thầy thấy được cái chỗ mà chúng ta sẽ tập luyện. Bởi vì đây là cái vai trò của người cư sĩ mới bước chân vào đạo Phật người ta đã luyện tập cái này rồi chớ không phải là vai trò của người tu sĩ. Người ta đợi tới làm Bồ Tát rồi người ta mới trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm thì quá trễ rồi. Nó không thể nào mà còn có thời gian mà chúng ta tu tập thiền định nữa. Khi mà đi sang qua giai đoạn của tu sĩ là cái giai đoạn tu tập thiền định, giữ gìn giới luật, tu tập thiền định. Còn cái giai đoạn của người cư sĩ là phải thực hiện tâm từ, tâm bi, tâm hỉ, tâm xả của mình để đối xử với nhau với một lòng thương yêu, làm cho xã hội càng tốt, đất nước thanh bình. Nó không có sự tranh chấp, nó không có sự tranh đua hơn thiệt với nhau. Do có tâm từ nó mới không có những cái tai nạn đó.
Đó là một cái hành động mà chúng ta đi. Bây giờ tới cái hành động nữa. Khi ta đứng lại ta cũng nhắc vậy. Khi mình đi thì thường mình nhắc cái câu đó, mà khi mình đứng, bởi vì đứng nó đâu còn đi nữa? Cho nên mình phải nhắc một cái câu khác để mình hướng tâm như cái lý trong khi mình đứng, thì mình phải nhắc một cái câu khác để khi mình đứng, dù khi mình đi thì mình hướng tâm như vậy, nhưng mình đứng lại là nó không đúng như vậy. Cho nên khi cái hành động đứng thì chúng ta cũng phải nhắc tâm, hướng tâm mình:
Chúng sanh quanh ta rất nhiều từ loài côn trùng nhỏ nhít cho đến các loài thảo mộc yếu mềm, ta đừng đứng trên chúng vì đứng trên chúng chúng sẽ đau khổ và chết chóc, héo úa.
Đó là một cái câu để chúng ta hướng tâm chúng ta trau dồi cái lòng thương yêu của chúng ta đến với tất cả muôn loài.
Đó thì hôm nay như quý thầy đã học được những câu như vậy thì quý thầy nhớ khắc ghi trong lòng. Hằng ngày ít ra mỗi ngày chúng ta cũng tập nó được ba, bốn lần, chứ đừng có học rồi thì xếp lại đó, để đó thì cái công của Thầy mà giảng dạy quý thầy như thế này, Thầy thấy mệt mỏi vô cùng. Vì học được, phải tu tập cho được để đền đáp lại ơn Thầy. Thầy đem hết sức mình ra giảng dạy cho quý thầy từng cái câu nhắc nhở nhỏ bé như vậy để tạo cho quý thầy có lòng thương yêu chơn thật nơi tâm hồn của quý thầy để quý thầy thoát ra khỏi cảnh đau khổ chính bản thân của quý thầy đứng trước các đối tượng. Thế mà quý thầy học rồi quý thầy xếp bỏ vào một cái góc nào đó thì thiệt là mỏi mệt cho Thầy vô cùng.
Có tu tập như vậy thì lòng ta từ từ thấm nhuần lòng từ bao la thương yêu tất cả muôn loài vạn vật muôn phương. Nếu mà khi đứng chúng ta cũng tập như vậy để nhắc nhở chúng ta đứng chúng ta tránh được những sự đau khổ của chúng sanh thì nó giúp cho chúng ta có một cái lòng thương, từ đó nó sẽ thấm nhuần muôn vật, muôn phương.
Bây giờ đến cái hành động nằm. Bởi vì trong thân của chúng ta đi đứng nằm ngồi. Cho nên bây giờ tới cái hành động nằm. Khi nằm ta cũng nhắc như vậy. Nghĩa là mỗi hành động chúng ta phải nhắc, và một ngày chúng ta có bao nhiêu lần đi, đứng, nằm, ngồi, mà mỗi lần đi đứng nằm ngồi là mỗi nhắc như vậy thì trong một ngày chúng ta đã thấm nhuần được bao nhiêu cái lòng thương yêu của chúng ta. Tức là chúng ta trau dồi được bao nhiêu lần. Một người thợ vót tên, mà ông ta ngồi ông ta vót kỹ lưỡng hẳn hòi mà vót hoài thì cái tên nó phải suôn, phải láng, phải tốt. Còn mình vót 2,3 cái rồi mình bỏ thì cây tên nó có suôn không? Chắc chắn là không suôn bằng cái người thợ mà chăm chỉ ngồi vót hoài. Vì vậy mà tâm ta chúng ta cũng phải trau dồi, trau chuốt nó mãi để cho nó được tốt đẹp, để cho nó được có lòng thương yêu thật, để cho nó được đứng trước các đối tượng mà tâm nó như như vui vẻ, không có buồn khổ.
Khi nằm ta cũng nhắc như vậy:
Tất cả chúng sanh đang ở dưới lưng ta. Ta hãy nhẹ nhàng chú ý xem xét coi có chúng sanh hay không rồi mới nằm.
Đó thì quý thầy nhiều khi lên giường ván mà nằm thì nằm đại, nhiều kiến, cũng mệt mỏi quá, rồi kiến cũng nằm đại, không ngờ dưới lưng chúng ta có những con vật, chừng mà nhìn lại thì có một con nhền nhện bị mình nằm chết cứng ở trong đó rồi, hay hoặc là một con gián hay hoặc là một con vật nào đó. Thậm chí như con bò cạp chúng ta nằm lăn qua lăn lại, nó nằm ở dưới lưng chúng ta, đến khi mà quét dọn hay hoặc là xếp mùng màn thì thấy một con vật chết ở dưới lưng ta. Thì như vậy là chúng ta đã vô tình không trau dồi được mình trong khi nằm để làm hại chúng sanh.
Khi mà chúng ta nằm cái thân của chúng ta to lớn, do đó cái sức nặng của chúng ta nhiều quá, còn cái thân của chúng bé nhỏ, giãy giụa dưới lưng ta, ta đâu biết được, trong khi chúng rên la đau đớn, chúng ta đâu nghe được. Vì vậy mà vô tình chúng ta nằm trên sự đau đớn của chúng sanh mà không hay biết.
Muốn trau dồi lòng từ thì chúng ta phải năng nổ, tu tập siêng năng hằng ngày nhắc đi nhắc lại tâm mình nó mới thấm nhuần được. Khi nằm lăn qua trở lại ta cũng phải lưu ý và nhắc:
Tất cả chúng sanh đang ở bên ta, hãy ý tứ đừng nên vô tình mà làm đau khổ và chết chóc chúng.
Đó là những cái câu để chúng ta hướng nhắc mình để cho thực hiện được cái tâm từ bi hỉ xả của mình. Mỗi hành động của thân ta đều nhắc như vậy, tâm ta lần lần thấm nhuần tình thương yêu chúng sanh rộng lớn bao la.
Bây giờ đến ngồi. Bởi vì trong cái thân của chúng ta đi đứng nằm ngồi, tất cả những cái hành động này mà nếu mà chúng ta thiếu sót một cái điều không tu thì đó là chúng ta đã thiếu khuyết. Khi ngồi ta cũng nhắc như vậy:
Nơi ngồi của ta có những chúng sanh nhỏ nhít, phải lưu ý khi ngồi, đừng vô tình ngồi trên chúng sanh làm đau khổ và chết chóc. Khi ngồi đừng lắc qua lắc lại vì lắc qua lắc lại va chạm làm đau khổ chúng sanh và chết chóc.
Quý thầy thấy trong những hành động mà oai nghi của một người ngồi mà lắc qua lắc lại với cái người ngồi mà không lắc qua lắc lại, người nào tốt? Đó thì quý thầy thấy từ cái tập của tâm từ bi mà nó biến thành một cái oai nghi tế hạnh của một con người rất là nghiêm chỉnh. Đi thì nhẹ nhàng, luôn luôn lúc nào cũng ngó xuống để tránh tất cả chúng sanh mà lại là phòng hộ được 6 căn của mình nữa. Các thầy thấy đó là một điều lợi ích rất lớn cho bước đường tu tập theo đạo Phật. Nó làm toát ra những đức hạnh mà con người ở thế gian này khó có thể theo được những cái hạnh này. Bởi vì con người ở ngoài thế gian chạy theo dục lạc, cho nên mắt thì nghinh ngó bên đây để tìm cái nào mà cám dỗ thu hút mình thích thú, còn người tu sĩ thì đâu còn cái chạy theo cái dục lạc cho nên mắt luôn luôn phòng hộ, nhìn xuống đất mà nhìn tất cả loài vật để thực hiện trau dồi tâm từ thương yêu của mình tránh sự đau khổ và chết chóc của chúng sanh.
Đó là những lúc đi, đứng, nằm, ngồi ta từng nhắc như vậy và nhắc từng mỗi bước đi để ta không quên và cố tránh được sự đau khổ và chết chóc của chúng sanh. Đây là sự trau dồi trong cái hành động của thân chúng ta, thì đi, đứng, nằm, ngồi, như vậy là đối với cái thân chúng ta tạm thời ở đây đủ để quý vị hằng ngày trau dồi, bởi vì lúc nào quý vị cũng có ngồi, lúc nào quý vị cũng có đi, lúc nào quý vị cũng có đứng, lúc nào quý vị cũng có nằm, không thể trong một ngày mà chúng ta thiếu 4 oai nghi này. Cũng như vào đây thì quý vị bước vào đây, trước khi mà bước vào thì quý vị phải đi, cho đến khi quý vị ngồi thì quý vị phải lưu ý chỗ ngồi, rồi đứng quý vị cũng lưu ý chỗ đứng. Cho nên mỗi cái làm chúng ta đều có sức tỉnh thức ở trong đó hết. Như vậy chúng ta có tu chánh niệm tỉnh thức đâu nhưng mà sức tỉnh thức chúng ta đã sẵn do trau dồi lòng từ mà nó đã có sức tỉnh thức. Kế đó lòng từ chúng ta càng lúc càng rộng lớn bao la do cái pháp hướng mà nhắc tâm làm cho tâm chúng ta thương yêu chúng sanh vô bờ bến.
Trau dồi lòng từ trong hành động của thân còn gợi lên lòng thương xót của chúng ta đối với chúng sanh bằng sự hành động cẩn thận của mình để tránh sự đau khổ và chết chóc của chúng sanh. Khiến cho tâm chúng ta càng lúc càng thương yêu chúng sanh nhiều hơn. Nghĩa là cái hành động đó hằng ngày mà chúng ta trau dồi thì lần lần Thầy tin rằng quý thầy mà thường xuyên trau dồi thì sức tỉnh thức rất lớn và đồng thời lại là lòng thương yêu càng nhiều, và càng nhiều thì nó sẽ cứu quý thầy thoát ra khỏi tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Nó không bao giờ mà còn có một cái tâm niệm xấu như vậy. Vì vậy mà cái ngũ triền cái quý thầy sẽ xả bỏ, đoạn trừ, dứt hẳn, từ giã nó không bao giờ còn ở trong của tâm quý vị nữa.
Khi mà Tứ Vô Lượng Tâm này đã ngự trị trong tâm hồn của quý vị thì năm triền cái này nó phải rớt đi, nó phải xa quý thầy đi, không còn có. Còn nếu không có như vậy, không trau dồi được Tứ Vô Lượng Tâm này thì ngũ triền cái vẫn đeo đẳng theo quý vị, cho đến khi mà quý vị phải thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm nó mới dứt được. Nó không đơn giản nhưng chúng ta phải có cái sức tu tập bền chí siêng năng thì nó mới đạt được. Bây giờ lòng mình nói thương mà sự thật mình có thương được chưa? Chưa. Mình thương mình chứ chưa chắc đã thương ai. Thầy nhắc lại câu chuyện để cho chứng minh rằng mình thương mình chứ chưa có thương ai hết. Nhưng mà mình nói rằng mình thương người này người kia, sự thật ra mình chưa có thương. Tại sao vậy? Có câu chuyện như thế này:
Bà hoàng hậu Vi Đề Hy hỏi đức vua Bình Sa Vương (Bimbisara):
"Bệ hạ có thương thần thiếp không?"
Nhà vua làm sao lại không thương hoàng hậu, cho nên nhà vua nói nhà vua rất thương hoàng hậu, tại sao hoàng hậu lại hỏi vậy? Thì bà Vi Đề Hy nói:
“Bệ hạ nói chứ bệ hạ chắc không thương thần thiếp đâu. Nếu giả chăng thần thiếp lấy một ông quan nào thì bệ hạ có thương thần thiếp không? Điều đó chứng minh rõ ràng là bệ hạ thương bệ hạ chứ bệ hạ đâu có thương thần thiếp. Khi mà nghe được tin “trời sét” này, thần thiếp đã lấy một vị quan nào ở trong triều này thì lúc bấy giờ bệ hạ còn có nước là thứ nhất là chặt đầu thiếp, thứ hai là giam thiếp ở trong lãnh cung chớ đâu có bao giờ mà để cho thiếp được tự do như thế này. Nếu là thương thiếp thì bệ hạ đâu có làm cái điều đó. Bởi vì thương người mà người đó người ta muốn như vậy thì mình cứ để cho người ta làm. Thì như vậy gọi là thương. Tại sao bây giờ bệ hạ nói bệ hạ thương thần thiếp mà khi nghe cái tin như vậy thì bệ hạ có thương không? Tức là bệ hạ thương bệ hạ.”
Đó qua câu chuyện như vậy chúng ta thấy rõ ràng chúng ta thương mình chứ không thương ai hết. Nghe một người vợ mà lấy người khác là tức ầm ầm lên rồi. Thì như vậy là mình có thương người không? Có thương vợ mình không? Hay là thương mình? Mình thương mình, mình muốn bảo vệ cái gì cũng của mình hết. Đó là thương mình, chớ đâu phải là thương người khác. Còn thương người khác là phải giúp cho người khác.
Đó, ở chỗ trau dồi tâm từ bi để chúng ta thấy được cái thương của chúng ta đối với muôn vật như thế nào. Quý thầy khi mà chưa trau dồi cái tâm từ bi, một con bò cạp cắn quý thầy đau, quý thầy giết con bò cạp. Như vậy là quý thầy nói tôi từ bi lắm, tôi thương lắm. Tôi thương lắm mà con bò cạp cắn đau quá thì quý thầy giết liền tức khắc. Như vậy đâu phải thương con bò cạp.
Những cái này là những bài học thực tế để chúng ta biết tình thương của chúng ta nó đang ở vị trí nào để chúng ta trau dồi nó. Một con vật cắn dù chúng ta có chết chúng ta cũng không nỡ giết nó nữa. Còn chúng ta chưa chết mới đau thôi mà đã vội đã giết chết con vật khác, rồi thấy con vật nào chúng ta cũng sợ hãi mà chúng ta giết hết. Sợ nó cắn mình cho nên giết sạch hết. Vì lòng thương yêu nhỏ mọn đó, ích kỷ đó đối với sự thương yêu mình cho nên trong xã hội nó mới có sự bất an, có sự tranh chấp nhau. Chớ nếu lòng thương yêu của chúng ta rộng lớn đối với mọi người chắc chắn không có sự bất an đó.
Vì vậy bài học đầu tiên trong Phật pháp là Tứ Vô Lượng Tâm. Để làm gì? Để xây dựng con người có đạo đức chân thật, biết thương yêu người. Để xây dựng xã hội tốt đẹp để cho trong xã hội có trật tự an ninh hẳn hòi. Vì lòng thương yêu đó mà có trật tự chứ không phải chúng ta có kỷ luật thế này thế khác, buộc mọi người thế này thế khác mà lòng thương yêu đó chẳng có thì xã hội chẳng có trật tự. Hình thức bên ngoài thì có trật tự nhưng bên trong có sự bắt buộc nào đó, chớ sự  thật thiếu trật tự. Đời sống càng ngày càng khổ là do chúng ta không tìm được nguyên nhân để giải khổ, cho nên cuộc sống con người rất là khổ. Ở đây Đức Phật  dạy ta biết pháp nào để mà trau dồi nó, để xây dựng mình tốt, xã hội tốt, nó mới có được cuộc sống hạnh phúc an vui cho nhau.
Lúc bấy giờ chúng ta bước chân đi, chúng ta đi rất rõ ràng với lòng từ thương yêu chúng sanh vô bờ bến, tràn ngập. Nếu mà trong khi bước đi ta không còn nhắc tâm nữa mà chúng ta thấy bước chân tự nhiên có sự tràn ngập lòng thương yêu chúng sanh, đó là chúng ta đã viên mãn từ vô lượng tâm. Còn bây giờ chúng ta đang đi mà chúng ta phải thường nhắc, rồi cái tâm lần lần huân lên sự thương yêu đó thì tức là đang trau dồi. Còn khi đi mà chúng ta thấy tự nhiên bước đi của mình, tự nhiên thân tâm của mình nó lách qua lách lại tránh sự đau khổ của cỏ cây thảo mộc cho đến các loài chúng sanh nhỏ nhít dưới bàn chân. Chúng ta không nhắc mà cái tâm nó thương xót, nó luôn luôn làm cho chúng ta theo dõi từng bước đi để không va chạm, để không làm đau khổ thì đó là chúng ta đã viên mãn lòng từ trong Tứ vô lượng tâm.
Ở đây thì Thầy nói ra cái kết quả cho chúng ta biết, mà khi lòng từ như vậy thì chúng ta thấy tâm bây giờ nó phủ trùm lên tất cả các loài vật, thảo mộc cây cỏ đều là thương yêu. Một nhánh cây kia các thầy cũng không bao giờ nỡ mà bẻ, hoặc là ngắt một cái lá, bứt một cái bông nữa.Tình thương yêu đến mức độ không ngờ, mà đến lúc ta trau dồi chúng ta thấy tất cả mọi người, mọi cây cỏ đều có sự sống y như nhau. Đó là cái viên mãn lòng từ của chúng ta tu tập. Còn nếu mà chúng ta không thực hiện được thì vô tình thấy cái bông đẹp là ngắt liền. Điều đó chứng minh rằng chúng ta chưa có lòng từ thương yêu. Ở đây Thầy muốn nói như vậy để khi nào mà chúng ta thực hiện tới đó thì chúng ta mới thấy cái tâm của chúng ta phủ trùm lòng thương yêu trên vạn vật, cho nên Phật nói tâm từ biến mãn khắp mười phương chúng sanh là như vậy. Và từ đó các thầy sẽ thấy nội cái Tứ vô lượng tâm này quý thầy đã giải thoát tâm hồn của mình, không còn có một pháp môn nào hết hoàn toàn vì đã thương thì không còn tham, đã thương thì không còn giận, mà nếu còn tham, còn giận thì làm sao gọi là thương. Đó, như vậy nội trong cái pháp Tứ vô lượng tâm cũng đem quý thầy đi đến cái nơi giải thoát, tới Niết bàn vĩnh cửu. Vì có thương yêu mọi người chân thật thì cái ngã nó không còn. Vì thương yêu cá nhân của mình cái ngã mới lớn. Đó là pháp môn vi diệu nhất mà chúng ta từng trau dồi thì chúng ta có sự giải thoát hoàn toàn. Niết bàn trước mặt chúng ta, đâu phải đợi chúng ta nhập Tứ thiền, mới nhờ Tam minh mà diệt lậu hoặc mới là Niết bàn. Mà chính ngay lòng thương yêu chúng ta cũng đã là Niết bàn.
Mỗi pháp môn của Phật đều có những vi diệu tuyệt vời của nó, nhưng vì chúng ta chưa biết, chưa trau dồi. Phỏng chừng một năm mà quý thầy mỗi bước đi đứng nằm ngồi của quý thấy mà quý thầy trau luyện thì chắc chắn trong một năm đó quý thầy thực hiện lòng từ bi hy xả của quý thầy thì ngay cuộc sống của quý thầy đã giải thoát hoàn toàn. Vì thế mà quý thầy thấy trong giới luật của Phật cấm không cho chúng ta trồng cây cỏ này kia hoặc làm cái nọ cái kia, tất các nghề nghiệp đều đình chỉ hết. Người tu sỹ chỉ còn biết đi khất thực ăn mà thôi, đi xin người khác thôi, không làm cái gì hết, bởi vì làm là động đến chúng sanh, làm là làm đau khổ chúng sanh. Không phải chúng ta ích kỷ nhưng mà chúng ta thực hiện đúng lòng thương yêu của chúng ta chơn thật để cho nó phủ trùm trên cái tình thương đó đối với muôn loài.
Vì thế bước vào đạo Phật chúng ta thấy đức Phật cấm tất cả các nghề, không được làm một cái nghề gì hết. Vì còn làm một cái nghề nào thì cái nghề đó sẽ đem đến cho chúng sanh có sự đau khổ đó. Muốn được vậy thì chúng ta phải từng ngày này chúng ta phải trau dồi trong 4 oai nghi đi đứng nằm ngồi của thân chúng ta.
Bây giờ ta về cái phần tay, cái tay của chúng ta. Nó cũng phải cầm, nắm, bắt chứ. Cái tay của chúng ta cũng có cái hành động của nó chứ. Nếu mà nó không có hành động, nó cứ cứng đờ thì chúng ta không nói tới nó, bởi vì tu trong hành động, trau dồi lòng từ của chúng ta trong hành động.
Đến cái phần tay: cầm, nắm, bắt lấy tất cả mọi vật dụng cần thiết cho đời sống tu hành cũng như cơm ăn, áo mặc hằng ngày, ta thường trau dồi tâm bằng pháp hướng như lý tác ý, nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nghĩa là luôn luôn lúc nào khi mà chúng ta cầm một vật gì của người khác cho mình, khi ta cầm một cái gậy hay cần vật dụng cần thiết cho đời sống của mình thì mình phải nhắc, mình phải hướng tâm mình nhắc nó như cái lý giải thoát của đạo để tâm từ thương yêu của mình từ đó mà phát triển và nó thấm nhuần cũng từ nơi đó.
Đây Thầy đem một cái ví dụ cái câu hướng tâm, như cái lý chân thật đó để mà chúng ta nhắc cái tâm mình khi mà tay nắm một vật gì của người khác cho hoặc là cầm một vật gì thì chúng ta phải nhắc:
Tất cả những vật dụng cần thiết như cơm ăn, áo mặc, thuốc thang là của làm bằng mồ hôi, nước mắt của mọi người cực nhọc mới có cho ta. Ta phải biết ơn và thương yêu họ và thương yêu tất cả mọi người, dù người đó có hay không có cúng dường cho ta với lòng chơn thật không bao giờ đánh trả lại, mắng chửi họ, không bao giờ nặng lời to tiếng với họ. Vì đánh mắng chửi rủa nặng lời với họ là ta đã không biết thương yêu họ, là ta đã làm cho họ khổ sở. Ta phải nói lời nhẹ nhàng an ủi để làm cho mọi người vui mà không buồn khổ nữa.
Đó là cái câu để chúng ta dùng cái hướng tâm của chúng ta thường nhắc đi nhắc lại như vậy cho nên nó thấm nhuần. Vì vậy mà mỗi lần chúng ta nhận vật gì cúng dường, như bây giờ quý thầy nhận một cuốn tập của người khác cúng dường bằng mồ hôi nước mắt của họ. Cho nên chúng ta nhận thì chúng ta tâm niệm, lặng một chút xíu để chúng ta hướng tâm, từ đó là chúng ta đã trau dồi tâm từ của chúng ta đó, lòng thương yêu của chúng ta đó. Do đó khi mà có người khác mắng chửi thì ở đó chúng ta lặng tâm trên câu hướng này làm cho chúng ta không còn giận hờn người khác nữa, không còn đau khổ nữa.Tâm chúng ta xả hoàn toàn.
Đó, trên bước đường tu tập nếu mà chúng ta biết áp dụng đúng cách thì ngay tức khắc chúng ta có những pháp hướng kèm theo khi chúng ta chưa thuần thục. Còn chúng ta thuần thục rồi thì chắc chắn là quý thầy sẽ thênh thang ở trên tâm hồn vô ngại, không còn một chướng ngại nào làm cho tâm của quý vị chướng ngại nữa.
Khi cầm, nắm, bắt lấy ta cũng nhẹ nhàng từ tốn, lỡ trên thân đồ vật có những chúng sinh nhỏ bé, mạnh tay sẽ làm cho chúng đau khổ và mạng vong. Đó, thì chúng ta cũng lưu ý về cái phần khi mà cầm cái vật, à bây giờ người ta đưa mình cuốn tập, mình hai tay mình cầm, mình cũng quan sát, mình quan sát coi ở trên cuốn tập này có con kiến hoặc con vật gì không, để không mình vô tình mình nắm nó dẹp lép, nó chết đi. Đó là những cái điều chúng ta tập luyện. Mà tập luyện như vậy là tập luyện tỉnh thức, rồi lại tập luyện được lòng từ, thì cái này là cái rất quý, vừa tập được cái này mà nó đạt được cái kia. Nhưng ở đây chúng ta không được gọi nó là Chánh niệm tỉnh thức định. Ở đây không được gọi nó như vậy, đây chỉ là tập tỉnh thức trong hành động để trau dồi tâm từ bi hỉ xả của mình, Tứ vô lượng tâm mà thôi.
Khi muốn trau dồi tâm từ các hành động của thân nơi tay thì quý vị phải siêng năng, cần mẫn nhắc đi nhắc lại nhiều lần để tâm tỉnh giác nơi mọi hành động của tay mình, tranh sự vô ý làm đau khổ chúng sanh. Có tinh tấn, siêng năng tu tập lòng từ bằng hành động của thân tỉnh giác, nhắc nhở lòng chúng ta thương yêu chúng sanh vô bờ bến, từ đó ta mới thấy thương yêu chúng sanh như thật.
Ở đây Thầy xin giải thích thêm cái phần này để quý thầy thấy lòng từ đối với chúng sanh có nghĩa sai biệt chỗ này, chỗ kia. Bởi vì nếu không hiểu thêm phần này thì chúng ta không biết lòng thương yêu của chúng ta nó đối với chúng sanh như thế nào. Một chúng sanh mà đang đang bị tai nạn, và một chúng sanh đang mạnh giỏi bình thường thì lòng từ vô lượng này nó sẽ đối với chúng sanh nào? Thì ở đây Thầy giải thích thêm để cho quý thầy thấy cái lòng từ là thương yêu chúng sanh chưa có tai nạn, chưa có bệnh tật, chưa có khổ đau. Cái lòng từ thì nó thương yêu chúng sanh đang mạnh khỏe, cho nên cái lòng từ nó rộng lớn lắm, nó không có cái đối tượng giãy dụa đau đớn, vì vậy mà cái lòng từ thương người trong khi mạnh giỏi, thương chúng sanh trong khi đang mạnh. Còn bây giờ khi thấy một cây cỏ úa hay một cái bông nó héo mà chúng ta khởi thương yêu nó, thì cái thương yêu đó gọi là lòng bi, chớ không phải lòng từ. Phân biệt được như vậy chúng ta thấy, chúng ta tu lòng từ là chúng ta thương chúng sanh đang ở trong mạnh khỏe, chứ không phải là trong sự đau ốm, hoặc tai nạn hay chết chóc rồi chúng ta mới thương yêu chúng. Cho nên từ nó khác mà bi nó khác. Phân biệt được như vậy thì chúng ta biết bây giờ chúng ta đi đứng thì những con vật dưới chân ta là con vật mạnh giỏi, chứ không phải con vật đau đớn. Cho nên cái hành động của chúng ta hằng ngày mà đi đứng đều là tránh nó đó, đó là chúng ta không làm chúng đau khổ, để cho chúng được mạnh khỏe, an vui, thảnh thơi, vui sướng ở trong đời sống của chúng, hòa mình ở trong cuộc sống, trong không gian và thời gian này.
Đó là cái lòng từ của chúng ta thực hiện đối với con người, con vật đang vui tươi, đang mạnh khỏe. Tức là học tới cái lòng hỷ thì chúng ta mới thấy được cái hỷ hòa mình ở trong sự an vui đó để cho tâm hồn của chúng ta phủ trùm trên sự sống của muôn vật với lòng thương yêu khắp cùng với nhau.
Còn lòng bi thì nó khác, khi mà gặp tai nạn nào đó của chúng sanh hoặc con người, người ta bị xe đụng, người ta bị bệnh khổ, người ta lâm tai nạn... thì ngay cái đối tượng đau khổ đó chúng ta thương yêu, thì sự thương yêu đó bắt buộc chúng ta phải thực hành bằng hành động. Người mà bị tai nạn thì mình tới giúp đỡ họ liền, người mà bị bệnh khổ thì mình tìm thang thuốc cho họ uống, người sợ hãi không dám qua đường thì mình dắt họ qua đường... thì đó là cái lòng bi. Mình đi trên xe buýt thấy một bà già bước lên mà không có chỗ ngồi, mình đứng dậy mình nhường cho bà già đó ngồi, đó là lòng bi. Vì bà già đang yếu đuối, bà không thể nào gượng khi xe dừng hoặc là xe chạy. Cho nên chúng ta nhường chỗ ngồi như vậy là lòng bi chứ không phải lòng từ.
Phân biệt được những cái mà đối xử với nhau như vậy chúng ta biết từ, bi như thế nào, ở mức độ nào để mà thực hiện cho đúng cách của nó.
Từ thuộc về nhân, nghĩa là cái nhân mình chuẩn bị cho chúng sanh đừng có đau khổ, mà bi là cái quả; bởi vì chúng sanh gặp những tai họa nhức nhối, thì bi, lòng bi của chúng ta đối với chúng sanh là đối trong cái quả. Mà lòng từ đối với nhân là chưa có gì hết, chúng ta chuẩn bị cho đừng có xảy ra tai nạn, cho nên lòng từ là cái nhân. Cho nên lòng từ biến mãn khắp mười phương chúng sanh, hòa mình trong cuộc sống vạn vật từ cỏ cây đến cầm thú đều được an lành. Không có con vật này giết con vật kia, không có giẫm đạp lên nhau, chà xéo lên nhau trong cuộc sống; không có tham dục, không có ích kỷ nhỏ mọn, không có cá nhân, chấp chặt ...mà chỉ có một quyền sống bình đẳng như nhau. Người này thương yêu người nọ, người nọ thương yêu người kia, sống vì người, vì tất cả chúng sanh nên gọi là lòng từ. Lòng từ phải được trau dồi, thấm nhuần, lưu xuất từ tận đáy lòng thương yêu chân thật. Nếu không được trau dồi thì lòng từ kia chỉ là một hình thức suông. Vì thế cuộc sống của muôn loài đang bị đe dọa trên những danh từ hoa mỹ “từ bi, bác ái”.
Bằng chứng là hiện giờ chúng ta thấy cái danh từ mà gọi là từ bi, bác ái thật sự ra đó là cái danh từ. Chớ còn từ bi, bác ái chưa có thực hiện đúng con người với con người, con người đối với con vật, nó chưa có cái từ bi, bác ái đó. Người ta dùng cái đó để người ta bịp đời chớ chưa hẳn là người ta đã thương đời thật. Cho nên ở đây chúng ta phải lật trái cái điều này để mà chúng ta thực hiện cái tâm mình cho nó chân thật chứ không khéo mình cũng bị những danh từ che đậy này mà tưởng rằng mình từ bi, bác ái. Sự thật ra mình chưa có trau dồi nó thì mình chưa hẳn đã từ bi, bác ái được. Vì cái bản ngã của chúng ta lầm chấp cái tâm này, cái thân này là cái ngã thì cái từ bi kia không bao giờ có được. Mà muốn có được thì chúng ta phải từng trau dồi nó thì ta mới có được. Và khi trau dồi nó thì ngã chúng ta lần lần tiêu mòn, chỉ còn biết người mà không thấy có mình nhưng trong đó có mình. Có mình mà như không có mình.
Đây là cái phần vừa là lý thuyết mà cũng vừa là thực hành. Mà cái thực hành là quý thầy phải nhớ kỹ những cái câu pháp hướng là những điều quan trọng nhất. Còn lý thuyết nói mênh mông để nghe cho nó thấu rõ được cái lý chứ sự thật ra cái lý thuyết nó chẳng ăn nhằm nhò gì hết. Nghe nó làm rối tai, làm rối đầu. Mà chính những cái pháp hướng, những câu ngắn ngủi mà Thầy vừa nhắc là cái mấu chốt để quý thầy trau dồi bằng cái sự tỉnh thức của mình trong mỗi hành động thân của chúng ta. Đó là những điều quan trọng nhất của cuộc đời tu hành của người tu sĩ. Còn cái mà Thầy nói lòng vòng như thế này, chỉ nói để cho nghe hiểu, cho vui chơi. Nó cũng như cái bài ca để mà ca hát cho quý vị nghe cho vui vậy chứ không có nghĩa lý gì hết. Cho nên khi mà nghe xong rồi thì những danh từ mà Thầy đã ca ở đây thì quý vị dẹp hết đi. Chỉ còn có một câu pháp hướng, mà đó là ngọn đuốc thắp đường để cho quý vị trau dồi sáng suốt thân tâm của mình.
Cho nên tu thì không có nhiều mà nói thì rất nhiều. Vì nhiều khi quý thầy không hiểu, phải nói ra cho hết, cho rõ, cho hiểu. Hiểu rồi thì áp dụng không có bao nhiêu.
Khi cầm một vật gì ta phải nhẹ nhàng nhắc nhở, Thầy nhắc nhở lại như hồi nãy:
Trên mọi vật đều có chúng sanh đang ở trên đó. Ta hãy cầm nhẹ nhàng để tránh sự chết chóc và đau khổ của chúng sanh.
Nắm bắt lấy cũng vậy, đều phải tập ý tứ nhẹ nhàng khiến cho người tu sĩ càng ngày càng có oai nghi tế hạnh hơn, không còn có những hành động thô tháo.
Đó, cái sự mà chúng ta tu tập, trau dồi tâm từ chúng ta nó có lợi ích cho chúng ta là tập luyện cái oai nghi tế hạnh của mình. Từ những hành động nhẹ nhàng làm cho chúng ta trở thành những vị tu sĩ xứng đáng là đệ tử của Phật. Nương vào mỗi hành động tay hoặc chân của ta đều hướng tâm nhắc tâm ta thương yêu tất cả muôn loài, từ đó tâm ta mới có sự thấm nhuần sâu vào tận xương tủy của chúng ta, từ đó biến mãn ra hành động nơi thân mình đầy lòng thương yêu chân thật.
Ở đây quý thầy phải hiểu, đây Thầy xin nhắc lại. Ở đây quý thầy phải hiểu: đừng lầm tưởng rằng chúng ta tu như vậy là tu Chánh niệm tỉnh giác định, mà là tu trau dồi Tứ vô lượng tâm bằng hành động thân của mình qua pháp hướng Như lý tác ý của Phật. Nhờ có Như lý tác ý tâm ta thấm nhuần lòng từ chân thật. Chính lòng từ chân thật này xuất hiện với tâm ta, ta mới tu hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng mới đạt kết quả tốt.
Thì quý thầy thấy từ chúng ta trau dồi cái lòng từ chúng ta đạt được thì cái tâm từ chúng ta xuất hiện được thì bây giờ cái nhẫn nhục là một cái điều chúng ta mới có làm được. Còn không chúng ta chỉ dùng danh từ nhẫn nhục để mà chơi, hoặc để nén tâm mà thôi, chịu đó chứ tâm chúng ta bực tức ở trong đó. Đó là chúng ta chưa có tu cái hạnh nhẫn nhục, nhưng danh từ nhẫn nhục ai ai cũng biết, danh từ tùy thuận thì ai ai cũng rõ. Nhưng khi mà chúng ta chưa trau dồi lòng từ của chúng ta thì nhẫn nhục tùy thuận chỉ là danh từ suông đối với quý vị mà thôi.
Một con vật chúng ta còn thương thay huống chi là một con người đang chửi mắng ta và làm khổ ta. Từ tâm rất quan trọng vì đứng trước mọi vật đang mạnh khỏe, đang hung hăng dữ tợn và có thể giết ta, hại ta nhưng lòng từ vẫn bang rãi đến chúng, thương yêu chúng. Người có lòng từ không bao giờ biết sợ hãi trước mọi hiểm nguy.
Ở đây Thầy nhắc lại cái phần này để cho rõ: Một khi mà chúng ta có lòng từ rồi thì cái tâm của chúng ta không còn sợ hãi con vật nào hết. Và mọi vật quanh ta nó cũng là những con vật, nó cũng ham sống và sợ chết. Nó thấy ta nó cũng sợ. Một con beo, một con cọp, một con gấu, một con voi, con vật nào nó thấy con người chúng ta nó cũng sợ, chứ không phải là nó không sợ. Do cái sợ hãi đó nó vẫn nhìn chúng ta châm châm. Chúng ta sợ nó mà chúng ta nhìn châm châm. Cái đôi mắt mà chúng ta nhìn châm châm thì tức là có sự hung dữ trong đó. Còn cái người lòng từ họ không sợ hãi cho nên họ không sợ con vật đó giết họ. Cho nên họ ngồi, đôi mắt họ hiền từ họ nhìn xuống, họ không bao giờ sợ hãi. Và con vật mà thấy cái đôi mắt mà nhìn xuống thì nó biết đó là con vật lành, không bao giờ mà tấn công giết hại chúng ta đâu.
Cho nên những người tu sĩ thường ẩn bóng trong rừng núi, họ ở trong những chỗ hiểm nguy, có thú dữ mà họ chẳng hề sợ hãi. Do họ đã tu tập được lòng từ chớ không phải thiền định. Bởi vì lòng từ của họ giúp cho họ chẳng hề sợ hãi trước sự nguy hiểm của thân họ. Vì họ nghĩ lòng từ thì không thể nào giết hại một con vật nào dù cho con vật đó có hại họ. Họ thà là chịu chết, họ không bao giờ làm đau khổ và giết hại con vật khác. Do vì lòng từ đó mà họ chẳng sợ nguy hiểm, chẳng ngại những gian lao khó khăn mà thực hiện con đường ẩn bóng. Hoặc là những con đường tu tập để đạt được cái nguyện vọng giai thoát cao hơn. Do đó, họ chẳng sợ hiểm nguy rừng sâu nước độc, họ thường ở trong những nơi thanh vắng để tập luyện những thiền định.
Thì quý thầy thấy rằng hiện giờ chúng ta chưa có lòng từ, bước ra một bước là chúng ta sợ hãi nơm nớp, do cái lòng từ của chúng ta chưa có. Lòng từ chúng ta có, ta ngồi trên xe ta cũng thản nhiên không lo trộm cắp móc túi. Tại sao vậy? Nếu quả chăng có những người trộm cắp móc túi thì đó là chúng ta ban rãi cho chúng những cái điều mà chúng đã không có. Cho nên chúng ta vẫn an nhiên tự tại. Nhưng đối với một người tu sĩ thì làm gì có vật gì đâu mà sợ. Cho nên chúng ta vẫn an nhiên ngồi trên xe mà không sợ móc túi. Tiền không có, vật không có, chỉ có cái bộ y áo trong mình với cái bát sành thì ăn trộm ăn cắp lấy làm gì, cho nên chúng ta vẫn an nhiên vui vẻ. Do vì vậy mà tu tập lòng từ phải sống một đời sống giống như phạm hạnh của người tu sĩ của đạo Phật thì lòng từ mới thể hiện dễ dàng. Còn nếu có vật gì mà làm chúng ta nơm nớp lo sợ để giữ gìn nó, thì tức là lòng từ chúng ta khó thực hiện được.
Ở đây đến cái cuối cùng này quý thầy sẽ thấy trước tiên ta áp dụng phương pháp tu trau dồi lòng từ thì nghe nó dễ dàng. Nhưng mà đến cái mức cuối cùng,  để kết luận để thấy rằng trau dồi lòng từ không đơn giản. Vì phải sống cái đời sống đúng cái hạnh của người tu sĩ thì cái lòng từ mới thực hiện trọn vẹn. Còn nếu không thì chỉ mới đạt được phân nửa mà thôi. Như vậy chúng ta đạt được phân nửa của lòng từ thì chúng ta cũng thấy được cái cõi đời của chúng ta an vui hạnh phúc vô cùng. Còn đạt được viên mãn lòng từ thì cả một vấn đề tu tập, cả một cuộc sống của chúng ta phải xa lìa những vật chất thế gian, những gì còn trói buộc chúng ta phải vứt bỏ hết. Thì lòng từ kia nó mới thực hiện được, vì lòng từ kia thực hiện được  tức là tâm không sợ hãi.
Người chưa có lòng từ thường hay sợ hãi. Thấy một con bọ cạp, một con rắn dữ, một con beo, một con gấu, một con hùm, v.v.. nếu con vật lớn thì họ sợ hãi, cao bay xa chạy; còn con vật nhỏ bé thì họ đập giết không tiếc thương. Trái lại lòng từ không cho phép ta có những hành động độc ác này. Lòng từ không cho phép chúng ta cao bay xa chạy trước những con vật hung dữ lớn hơn chúng ta. Lòng từ không cho phép chúng ta có tâm tàn nhẫn giết hại những con vật nhỏ bé. Người có tâm từ không hề sợ hãi thú dữ và còn thương yêu chúng nữa. Cho nên chúng ta nghe các vị tu ở trong rừng núi, nhiều khi cọp nó ngồi gần bên mà nó hầu hạ các vị. Tại sao vậy? Tại vì lòng từ của các vị ban rải, cho nên từ cái tình thương của con vật nó thông cảm, nó giao cảm được với cái tình thương của con người. Còn chúng ta vô rừng mà gặp cọp beo thì chắc chắn là chớ vớ là chúng ta bị nó xé xác. Tại vì cái tâm của chúng ta, cái từ trường của chúng ta nó không có từ. Cho nên do đó nó đã đánh hơi được cái sự hung dữ của chúng ta. Tâm chúng ta dữ tợn, vì vậy nó phải giết những con vật dữ để bảo vệ sự sống của nó. Cũng như bây giờ chúng ta thấy một con bọ cạp nhưng chúng ta chưa giao cảm cái từ trường của nó. Nó chỉ là một cái con vật, nó có một cái chất độc bảo vệ sự sống của nó, chớ nó đâu phải dùng chất độc đó để đi giết chúng ta. Nhưng lòng từ chúng ta không có cho nên chúng ta lại đập giết nó. Chớ nó không có đem chất độc để đến mà giết chúng ta.
Nhiều khi một con vật nó rớt ở trên mái nhà nó rớt xuống mình chúng ta, nó đâu có cắn chúng ta. Nhưng khi chúng ta vô tình lấy cái tay để nhẹ lên trên nó, vì vô tình chúng ta không biết có nó. Nhưng vì nó đau quá, bắt buộc nó phải cắn chúng ta. Do đó chúng ta bị cắn là vì bảo vệ cái sự sống của nó chứ không phải nó đi tìm chúng ta mà cắn. Thường thường Thầy ngủ bò cạp hay rớt ở trên mình. Do đó mà người tu hành kỹ lưỡng mà trau dồi cái tâm từ thì khi mà chúng ta cựa mình thì chúng ta phải ý tứ hẳn hoài, nhẹ nhàng thì làm sao bò cạp cắn. Còn quý thầy cựa mình thì lăn cái ù cho nên tay chân thì quơ, vì vậy mà đụng nó đau, rồi đâm ra giết nó thì rất là tội.

Thì hôm nay Thầy nói như vậy để biết rằng cái sự trau dồi lòng từ là cái hành động nhẹ nhàng của chúng ta thì chúng ta cũng tránh sự đau khổ của chúng sanh vì bảo vệ mạng sống của chúng. 


______________
Nguồn tài liệu: 

Bài pháp này có nguồn gốc từ bài giảng Tứ Vô Lượng Tâm của Đức Trưởng lão trong Giáo án đường lối tu tập đạo Phật (61 cuốn băng).
Link pháp âm:

        01. Bản của bác Chơn Đức chuyển từ băng sang file mp3:

                      Link: https://archive.org/details/01ADUONGLOITUTAPDAOPHAT_201307
             
        02. Bản  của Thầy Bảo Nguyên: 
                      Link: https://archive.org/details/01GiaoAnTuTapIPhanGioiThieuGiaoAn

No comments:

Post a Comment